Thập khôi hoàn

2013-05-08 10:07 AM

Đây là phương thường dùng để cầm máu. Mười vị thuốc trong phương đều có tác dụng lương huyết chỉ huyết.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thành phần

1.  Đại kế thảo khôi              320 gam.

2.  Trần tông khôi                 320 gam.

3.  Đại hoàng khôi               320 gam.

4.  Đan bì khôi                      320 gam.

5.  Hà diệp khôi                    320 gam.

6.  Tiểu kế thảo khôi            320 gam.

7.  Trác bá khôi                     320 gam.

8.  Sơn chi tử khôi               820 gam.

9.  Tây thảo khôi                   320 gam.

10. Mao căn khôi                 320 gam.

Cách dùng

Mười vị trên nghiền bột mà dùng. Hiện nay, xí nghiệp dược ở Thượng Hải dùng nước sắc bạch cập độ 40-60 gam luyện bột ấy làm viên to bằng hạt đậu xanh.

Mỗi lần uống 4-12 gam, ngày 1-3 lần với nước chín.

Công dụng

Lương huyết, chỉ huyết.

Chữa chứng bệnh

Các chứng nội xuất huyết đều ứng dụng được, khái huyết, nục huyết đều thích
hợp.

Giải bài thuốc

Đây là phương thường dùng để cầm máu. Mười vị thuốc trong phương đều có tác dụng lương huyết chỉ huyết. Nhưng Đại kế, Tiểu kế, Tây thảo, Đại hoàng, Đan bì còn có tác dụng hóa ứ; Đại hoàng, Chi tử còn có tác dụng tả hỏa, Hà diệp, Trắc bá, Tông lư bì còn có tác dụng thu liễm.

Toàn phương có công năng lương huyết, chỉ huyết, cầm máu, nhưng không lưu ứ - dùng chữa chứng huyết nhiệt chảy máu nhất định hiệu quả. Theo nguyên tắc cấp tắc trị tiêu, thì phương trên là thuốc chỉ huyết tạm thời. Sau khi cầm máu, phải biện chứng tìm nguyên nhân để trị tận gốc bệnh. Truyền thống xưa nhận rằng thuốc chỉ huyết thường sao đen để tăng cường tính thu sáp. Vì thế phương này các vị nên sao cháy, nhưng phải tồn tính.

Bài viết cùng chuyên mục

Thiếu phúc trục ứ thang

Phương này lấy bài Thất tiếu tán (Bồ hoàng, Ngũ linh chi) phối ngũ với Khung, Quy làm chủ yếu, lại gia Huyền hồ.

Bổ phế a giao thang

Lâm sàng dùng phương này, nếu có biểu chứng gia Tang diệp, Bạc hà; hỏa thịnh ho dữ gia Tang bạch bì, Tỳ bà diệp và không dùng gạo nếp.

Hoàng liên thang

Bài này là cách biến hóa của tiểu Sài hồ thang. Chủ trị chức năng tràng vị rối loạn, hàn nhiệt xen kẽ. Nhiệt thì ngực phiền nhiệt mà gây nôn, hàn thì bụng đau, bụng sôi mà đi tả.

Sâm giới tán

Cáp giới (con tắc kè đùng cả đực cái) là thuốc bổ phế ích tinh, ôn thận nạp khí để định suyễn nghịch. Nhân sâm đại bổ nguyên khí. Hai vị hợp dùng để nạp khí qui nguyên.

Tứ vật thang

Từ vật thang là phương thuốc bổ huyết kèm thêm hoạt huyết, người xưa nói nó là “phương thuốc chuyên về điều huyết can kinh”.

Thanh chấn thang

Phương này dùng Thăng ma thăng thanh dương, Thương truật tán phong khứ hàn thấp, Bạc hà thanh đầu mắt, hỗ trợ cho Thăng ma.

Thần tê đan

Trừ Xương bồ và các vị Sinh địa, Đậu xị ra, các vị còn lại nên nghiền thành bột mịn, trộn đều, rồi dùng Sinh địa, Xương bồ tươi vắt lấy nước trấp. Lấy nước đó sắc với Đậu xị cho cạn.

Đại hoàng giá trùng hoàn

Phương này chữa huyết khô nội kết thể hư mà trạng thực, ứ huyết không ra thì tân huyết không sinh, bổ cũng không ích gì.

Chỉ truật hoàn

Bài này dùng Bạch truật kiện tỳ, Chỉ thực tiêu đầy chướng nhưng liều lượng Bạch truật gấp đôi Chỉ thực.

Ôn kinh thang

Trước đây, người ta cho phương này là tễ tiêu biểu cho các thứ thuốc điều kinh, phần nhiều gia giảm vận dụng cốt đạt và pháp, không câu nệ vào phương.

Tô hợp hương hoàn

Các loại nghiền bột mịn, trừ đầu Tô hợp hương, Xạ hương và Băng phiến ra, các vị còn lại đem trộn thật đều và nghiền thật mịn, sau đó cho Xạ hương, Băng phiến vào các vị đã nghiền trên rồi lại nghiền đều.

Tam vật bị cấp hoàn

Bài này dùng Ba đậu tính tân nhiệt toan hạ, khai thông bế tắc là thuốc chủ, Can khương giúp Ba đậu tính tân nhiệt để trục hàn, Đại hoàng giúp Ba đậu tả hạ để công tích.

Bán hạ hậu phác thang

Bài này thính để chữa bệnh khi hạch, kiêm chữa ngực đầy thở gấp bụng đầy đau và nôn mửa. Những chứng bệnh này hình thành chủ yếu là do đàm khí cản nhau.

Thanh cốt tán

Bài này tuy gồm các vị hàn lương nhưng không phải là thuốc đại khổ, đại hàn là bài thuốc tiêu biểu chữa thanh hư nhiệt, nhiệt đốt trong xương mà gây sốt theo cơn.

Ma hoàng thang

Ma hoàng tân ôn phát biểu, tuyên phế, bình suyễn là chủ dược, phối với Quế chi ôn kinh tán hàn giúp Ma hoàng phát biểu.

An cung ngưu hoàng hoàn

Bản phương dùng Hoàng liên, Sơn chi, Hoàng cầm thanh nhiệt tả hỏa giải độc, Ngưu hoàng, Tê giác, thanh vinh, lương huyết và giải độc. Xạ hương, Băng phiến khai khiếu.

Đào nhân thừa khí thang

Phương này thích hợp chữa chứng ứ huyết nội kết. Ngày xưa gọi là chứng “súc huyết”. Phát sốt là ứ huyết phát thành nhiệt, nói nhảm như cuồng là do ứ nhiệt thượng xung.

Trúc diệp thạch cao thang

Khi vị khí, vị âm không đủ mà chứng vị nhiệt không biểu hiện rõ (như miệng hôi, lưỡi nứt) có thể bỏ Thạch cao, lưỡi sáng bóng như gương, có thể thêm Thanh học tươi, Thiên hoa phấn để sinh tân tăng dịch.

Ôn tỳ thang

Bài này thực tế là Tứ nghịch gia Nhân sâm thang lại gia thêm Đại hoàng. Tứ nghịch gia Nhân sâm thang vốn dùng để ôn trung tán hàn, hồi dương cứu nghịch.

Tang phiêu tiêu tán

Tang phiêu tiêu bổ thận, cố tinh quan, phò tá có Long cốt, Quy bản tư thận cố sáp, tăng cường công hiệu của tang phiêu tiêu. Phục thần, Xương bồ, Viễn chí khai tâm khiếu, an tâm thần, phối ngũ với các vị thuốc trên có tác dụng giao thông tâm thận.

Ngũ linh tán

Trư linh, Phục linh, Trạch tả lợi thủy thảm thấp, Bạch truật kiện tỳ vận hóa thấp khiến thủy thấp, không đình tụ được. Quế chi tân ôn thông dương giúp bàng quang khí hóa.

Đạo đàm thang

Nhị trần gia Chỉ thực hạ khí giáng nghịch, Nam tinh sưu phong khứ đàm, nên dẫn được đàm xuống, để trị phong đàm Thượng nghịch.

Nhất hiệu khu hồi thang

Phương này trọng dụng Binh lang, Sử quân, Khổ luyện căn bì để tẩy giun, phụ thêm có Ô mai, Xuyên tiêu, Tế tân, Can khương để an hồi; Mộc hương chỉ xác hành khí, nên thuốc này có tác dụng giảm đau.

Đại hoàng mẫu đơn thang

Chứng Trường ung, theo y học của Tổ quốc cho rằng do nhiệt độc ủng kết trong ruột, huyết ứ không tán mà thành bệnh. Bản phương dùng Đại hoàng thanh nhiệt giải độc, tả hỏa.

Thanh cao miết giáp thang

Bài này là bài thuốc tiêu biểu về dưỡng âm thanh nhiệt thích hợp với người bệnh âm huyết không đủ mà lại bị sốt cơn, nó khác với bài Thanh cốt tán chuyên thanh cốt chưng đốt.