Tinh trùng và sinh sản nam

2020-06-09 02:09 PM

Đôi khi một nam giới có số lượng tinh trùng bình thường nhưng vẫn bị vô sinh. Khi tình trạng này xảy ra, rất nhiều, thậm trí là một nửa số tinh trùng của người này có hình dạng bất thường, có hai đầu, bất thường đầu hay bất thường thân.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Sinh tinh bất thường và vô sinh nam

Biểu mô ống sinh tinh có thể bị phá hủy bởi nhiều nguyên nhân. Ví dụ, viêm tinh hoàn hai bên do quai bị có thể là nguyên nhân gây vô sinh ở một số nam giới. Ngoài ra, một số trẻ em nam sinh ra với thoái hóa biểu mô ống sinh tinh do hẹp đường dẫn tinh hay bất thường khác. Cuối cùng, một nguyên nhân của vô sinh nam, thường là tạm thời, là sự gia tăng nhiệt độ quá mức ở tinh hoàn.

Ảnh hưởng của nhiệt độ lên sự sinh tinh

Sự tăng nhiệt độ có thể ngăn cản sự sinh tinh vì nó có thể tiêu diệt hầu hết các tế bào trong ống sinh tinh ngoại trừ tinh nguyên bào. Đó là lý do tinh hoàn được treo ở hai túi bìu bên ngoài cơ thể mặc dù ở đó chỉ thấp hơn nhiệt độ cơ thể 2°C. Vào những ngày lạnh, phản xạ da bìu kéo tinh hoàn lại gần cơ thể để duy trì chênh lệch nhiệt độ 2°C này. Do đó bìu hoạt động như một cơ chế làm mát cho tinh hoàn (làm mát có kiểm soát), nếu không sự sinh tinh sẽ bị suy giảm trong những ngày trời nóng.

Ẩn tinh hoàn

Ẩn tinh hoàn là chỉ sự thất bại của quá trình di chuyển của tinh hoàn từ ổ bụng xuống bìu trong hoặc gần thời gian thai nhi sinh ra. Cùng với sự trưởng thành của thai nhi nam, tinh hoàn có nguồn gốc từ mầm sinh dục trong ổ bụng. Tuy nhiên trong khoảng 3 tuần đến 1 tháng sau khi sinh, tinh hoàn di chuyển dọc theo các kênh ở bẹn xuốn bìu. Đôi khi quá trình này xảy ra không đầy đủ, kết quả là một hay thậm trí cả 2 tinh hoàn ở lại trong bụng, ở ống bẹn hay ở bất kì vị trí nào khác trên đường di chuyển.

Một tinh hoàn còn sót lại trong ổ bụng qua thời gian sẽ mất đi khả năng sinh tinh trùng. Các tế bào biểu mô ống sinh tinh sẽ dần thoái hóa chỉ để lại tổ chức kẽ của tinh hoàn. Nó là một minh chứng cho việc nhiệt độ cao trong ổ bụng là nguyên nhân gây thoái hóa tế bào ống sinh tinh, do đó gây ra vô sinh, mặc dù ảnh hưởng này là không chắc chắn. Dù vậy, việc chuyển tinh hoàn từ ổ bụng xuống bìu trước khi bắt đầu đời sống sinh dục của người trưởng thành có thể thực hiện ở các nam giới có tinh hoàn lạc chỗ.

Tinh hoàn thai nhi tiết ra testosteron bình thường là nguyên nhân kích thích tinh hoàn di chuyển từ bụng xuống bìu. Do đó, môt phần, không phải tất cả, những trường hợp ẩn tinh hoàn là do bất thường ở tinh hoàn không tiết đủ testosterone. Phẫu thuật chuyển tinh hoàn xuống bìu ở những bệnh nhân như vậy là không có kết quả.

Tác động của số lượng tinh trùng lên khả năng sinh sản

Một lần xuất tinh bình thường nam giới tiết ra khoảng 3.5ml tinh dịch, và trong 1 ml tinh dịch có chứa khoảng 120 triệu tinh trùng, (thực ra là trong khoảng 35 triệu đến 200 triệu tinh trùng). Điều đó có nghĩa là một lần xuất tinh sẽ giải phóng cỡ 400 triệu tinh trùng có mặt trong vài milliliter tinh dịch. Khi số lượng tinh trùng trong mỗi milliliter giảm xuống dưới 20 triệu, người đó có thể bị vô sinh. Như vậy mặc dù chỉ cần một tinh trùng duy nhất cho sự thụ tinh, do lý do nào đó chưa được biết rõ, xuất tinh lại cần một số lượng lớn tinh trùng như vậy.

Tinh trùng bất thường vô sinh, so với tinh trùng bình thường bên phải.

Hình. Tinh trùng bất thường vô sinh, so với tinh trùng bình thường bên phải.

Ảnh hưởng của hình thái học và di động tinh trùng lên khả năng sinh sản

Đôi khi một nam giới có số lượng tinh trùng bình thường nhưng vẫn bị vô sinh. Khi tình trạng này xảy ra, rất nhiều, thậm trí là một nửa số tinh trùng của người này có hình dạng bất thường, có hai đầu, bất thường đầu hay bất thường thân như mô tả trong hình. Trong trường hợp khác, tinh trùng có thể có cấu trúc bình thường, nhưng do một nguyên nhân nào đấy chưa biết, chúng ít di động hoặc hoàn toàn không di động. Bất cứ khi nào mà một phần tinh trùng có hình dạng bất thường hoặc không di động thì người đó có thể bị vô sinh mặc dù phần tinh trùng còn lại hoàn toàn bình thường.

Bài viết cùng chuyên mục

Hormone tăng trưởng (GH) kích thích phát triển sụn và xương

Khi đáp ứng với kích thích của GH, các xương dài phát triển chiều dài của lớp sụn đầu xương, nguyên bào xương ở vỏ xương và trong một số khoang xương gây lắng đọng xương mới vào bề mặt của các xương cũ.

Chức năng của màng bào tương

Màng bào tương cho phép một số chất đi qua nhưng lại không cho hoặc hạn chế sự vận chuyển qua màng của một số chất khác, tính chất này được gọi là tính thấm chọn lọc.

Trao đổi chất của cơ tim

ATP này lần lượt đóng vai trò như các băng tải năng lượng cho sự co cơ tim và các chức năng khác của tế bào. Trong thiếu máu mạch vành nặng, ATP làm giảm ADP, AMP và adenosine đầu tiên.

Cảm giác thân thể: con đường dẫn truyền vào hệ thần kinh trung ương

Các thông tin cảm giác từ các phân đoạn thân thể của cơ thể đi vào tủy sống qua rễ sau của dây thần kinh sống. Từ vị trí đi vào tủy sống và sau là đến não, các tín hiệu cảm giác được dẫn truyền qua một trong 2 con đường thay thế.

Ảnh hưởng của lực ly tâm lên cơ thể

Ảnh hưởng quan trọng nhất của lực ly tâm là trên hệ tuần hoàn, bởi vì sự lưu thông của máu trong cơ thể phụ thuộc vào độ mạnh của lực ly tâm.

Mức độ thiếu oxy mà một trẻ sơ sinh có thể chịu đựng được

Khi phế nang mở, hô hấp có thể bị ảnh hưởng thêm với vận động hô hấp tương đối yếu. May mắn thay, hít vào của trẻ bình thường rất giàu năng lượng; Có khả năng tạo ra áp lực âm trong khoang màng phổi lên đến 60mmHg.

Phát triển của phôi trong tử cung

Khi sự cấy diễn ra, các tế bào lá nuôi phôi và các tế bào lá nuôi lân cận (từ túi phôi và từ nội mạc tử cung) sinh sản nhanh chóng, hình thành nhau thai và các màng khác nhau của thai kì, phôi nang.

Tế bào cơ thể người chết theo chương trình: Apoptosis

Ngay cả ở người trưởng thành, tỷ tế bào chết mỗi giờ trong các mô như ruột và tủy xương và được thay thế bằng tế bào mới. Lập trình chết tế bào, tuy nhiên, thường là sự cân bằng sự hình thành các tế bào mới ở người trưởng thành khỏe mạnh.

Bài tiết chất nhầy và gastrin ở tuyến môn vị

Tế bào bài tiết một lượng nhỏ pepsinogen, như đã nói ở trên, và đặc biệt là bài tiết một lượng lớn lớp chất nhày mỏng để giúp bôi trơn thức ăn khi di chuyển, cũng như bảo vệ thành của dạ dày khỏi sự phân hủy của các enzyme.

Trạm thần kinh: sự phân kỳ của các tín hiệu đi qua

Sự phân kỳ khuếch đại hiểu đơn giản là các tín hiệu đầu vào lan truyền đến một số lượng nơ-ron lớn hơn khi nó đi qua các cấp nơ-ron liên tiếp trong con đường của nó.

Kiểm soát lưu lượng máu mô bằng các yếu tố thư giãn hoặc co thắt có nguồn gốc từ nội mô

Điều quan trọng nhất của các yếu tố giãn mạch nội mô là NO, một khí ưa mỡ được giải phóng từ tế bào nội mô đáp ứng với rất nhiều kích thích hóa học và vật lý.

Miễn dịch ở trẻ sơ sinh

Trẻ sơ sinh hiếm khi bị dị ứng. Tuy nhiên, vài tháng sau đó, khi kháng thể của nó bắt đầu được hình thành, những trạng thái dị ứng nặng có thể tiến triển.

Phối hợp các chức năng của cơ thể qua chất dẫn truyền hóa học

Hormone được vận chuyển trong hệ tuần hoàn đến các tế bào đích trong cơ thể, gồm cả tế bào trong hệ thần kinh, tại nơi chúng gắn vào các receptor và tạo ra sự phản hồi của tế bào.

Tuần hoàn phổi: giải phẫu sinh lý tuần hoàn mạch máu và bạch huyết

Động mạch phổi có thành dày bằng 1/3 của động mạch chủ. Các nhánh động mạch phổi ngắn và tất cả các động mạch phổi, thậm chí nhỏ hơn động mạch nhánh và tiểu động mạch, có đường kính lớn hơn động mạch toàn thân tương ứng.

Phân tích thông tin thị giác: Con đường vị trí nhanh và chuyển động và Con đường mầu sắc và chi tiết

Các tín hiệu được dẫn truyền trong đường vị trí-hình dạng chuyển động chủ yếu đến từ các sợi thần kinh thị giác lớn M từ các tế bào hạch võng mạc type M, dẫn truyền tín hiệu nhanh chóng.

Tần số âm thanh: định nghĩa nguyên lý vị trí thính giác

Phương pháp chủ yếu để hệ thần kinh phát hiện ra các tần số âm thanh khác nhau là xác định vị trí trên màng nền nơi mà nó được kích thích nhiều nhất, nó được gọi là nguyên lý vị trí trong xác định tần số âm thanh.

Cơ quan Corti: tầm quan trọng trong việc thu nhận âm thanh

Các thụ thể nhận cảm trong cơ quan Corti gồm 2 loại tế bào thần kinh được gọi là tế bào lông- một hàng tế bào lông ở trong, và 3 đến 4 hàng tế bào lông ở bên ngoài, gồm 12,000 tế bào có đường kính chỉ khoảng 8 micro mét.

Sinh lý quá trình sinh nhiệt thải nhiệt cơ thể

Hầu hết lượng nhiệt sinh ra trong cơ thể được tạo thành từ các cơ quan ở sâu như gan, não, tim và cơ (khi có vận cơ). Rồi thì nhiệt được vận chuyển đến da là nơi có thể thải nhiệt vào môi trường xung quanh.

Sự lan truyền điện thế hoạt động màng tế bào

Quá trình khử cực di chuyển dọc theo toàn bộ chiều dài dây thần kinh. Sự lan truyền của quá trình khử cực dọc theo một dây thần kinh hoặc sợi cơ được gọi là một xung động thần kinh hay cơ.

Tính nhịp điệu của mô dễ bị kích thích phóng điện lặp lại

Các dòng chảy của các ion kali tăng lên mang số lượng lớn của các điện tích dương ra bên ngoài của màng tế bào, để lại một lượng đáng kể ion âm hơn trong tế bào xơ hơn trường hợp khác.

Cơ chế hô hấp trong khi vận động

Phân tích nguyên nhân gây ra sự gia tăng thông khí trong quá trình vận động, một trong những nguyên nhân gây tăng thông khí là do tăng CO2 máu và hydrogen ions, cộng với sự giảm O2 máu.

Phế nang: tốc độ thông khí của phế nang

Một trong những chức năng quan trọng của đường hô hấp là giữ chúng luôn mở và cho phép không khí đi lại đến phế nang dễ dàng. Để giữ khí quản khỏi xẹp, nhờ có sụn nhẫn.

Sinh lý hồng cầu máu

Hồng cầu không có nhân cũng như các bào quan, thành phần chính của hồng cầu là hemoglobin, chiếm 34 phần trăm trọng lượng.

Khuếch tán khí hô hấp: chênh lệch áp suất gây nên khuếch tán khí

Ngoài sự khác biệt áp suất, một số yếu tố khác ảnh hưởng đến tốc độ khuếch tán khí trong dịch, là độ tan của khí trong dịch, diện tích mặt cắt ngang của dịch, khoảng cách khí phải khuếch tán, trọng lượng của khí, và nhiệt độ dịch.

Nguy cơ bị mù gây ra bởi điều trị quá nhiều oxy ở những trẻ sơ sinh thiếu tháng

Sử dụng quá nhiều oxy gen để điều trị cho trẻ sơ sinh non, đặc biệt là lúc mới sinh, có thể dẫn đến mù bởi vì quá nhiều oxy làm dừng sự tăng sinh các mạch máu mới của võng mạc.