Phác đồ điều trị mất nước

2024-03-15 11:10 AM

Mất nước do cơ thể mất quá nhiều nước và chất điện giải. Nếu kéo dài, tình trạng mất nước có thể ảnh hưởng đến tưới máu cơ quan, dẫn đến sốc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Mất nước do cơ thể mất quá nhiều nước và chất điện giải. Nếu kéo dài, tình trạng mất nước có thể ảnh hưởng đến tưới máu cơ quan, dẫn đến sốc.

Nguyên nhân chủ yếu là do tiêu chảy, nôn mửa và bỏng nặng.

Trẻ em đặc biệt dễ bị mất nước do thường xuyên bị viêm dạ dày ruột, tỷ lệ diện tích bề mặt trên thể tích cao và không có khả năng giao tiếp đầy đủ hoặc tự đáp ứng nhu cầu chất lỏng của mình.

Các phác đồ dưới đây tập trung vào điều trị mất nước do tiêu chảy và nôn mửa. Các phác đồ điều trị thay thế nên được sử dụng cho trẻ suy dinh dưỡng hoặc bệnh nhân nội trú bị bỏng nặng.

Đánh giá lâm sàng

Tiền sử tiêu chảy và/hoặc nôn mửa đồng thời giảm lượng nước tiểu.

Các đặc điểm lâm sàng phụ thuộc vào mức độ mất nước (xem bảng bên dưới). Các đặc điểm như khô miệng, không chảy nước mắt cũng có thể được ghi nhận.

Bệnh nhân bị mất nước nặng nên được đánh giá sốc (nhịp tim nhanh, huyết áp thấp và thời gian làm đầy mao mạch chậm, v.v.).

Rối loạn điện giải có thể gây thở nhanh, chuột rút hoặc yếu cơ, rối loạn nhịp tim (nhịp tim không đều, đánh trống ngực), lú lẫn và/hoặc co giật.

Phân loại mức độ mất nước (theo WHO):

 

Mất nước nặng: Có ít nhất 2 trong số các dấu hiệu sau:

Mất nước: Ít nhất 2 trong số các dấu hiệu sau:

 

Không mất nước: Không có dấu hiệu mất nước "nghiêm trọng" hoặc "một phần".

Trạng thái tâm thần

Hôn mê hoặc bất tỉnh

Bồn chồn hoặc cáu kỉnh

Bình thường

Bắt mạch

Yếu hoặc vắng mặt

Sờ thấy

Dễ dàng sờ thấy

Mắt (a)

Trũng

Trũng

Bình thường

Véo da (b)

Quay lại rất chậm

(> 2 giây)

Quay lại từ từ

(< 2 giây)

Quay trở lại một cách nhanh chóng

(< 1 giây)

Khát nước

Uống kém hoặc không uống được

Khát, uống một cách nhanh chóng

Không khát, uống bình thường

(a) Mắt trũng có thể là một đặc điểm bình thường ở một số trẻ em. Hỏi bà mẹ xem mắt trẻ có bình thường không hay có trũng hơn bình thường không.

(b) Đánh giá tình trạng véo da bằng cách véo da bụng giữa ngón cái và ngón trỏ mà không vặn. Ở người lớn tuổi, dấu hiệu này không đáng tin cậy vì quá trình lão hóa bình thường làm giảm độ đàn hồi của da.

Điều trị

Mất nước nghiêm trọng

Điều trị sốc nếu có.

Nếu có thể uống được, hãy cho uống dung dịch bù nước (ORS) PO trong khi tiếp cận IV. theo Kế hoạch điều trị của WHO, theo dõi chặt chẽ tốc độ truyền:

Chèn đường IV ngoại biên bằng ống thông cỡ lớn (22-24G ở trẻ em hoặc 18G ở người lớn) hoặc kim tiêm trong xương.

Dùng Ringer lactate (RL)a

Kế hoạch điều trị của WHO phác đồ C:

Tuổi

Đầu tiên, cho 30 ml/kg trên: (c)

Sau đó, cho 70 ml/kg trên:

Trẻ em < 1 tuổi

1 giờ

5 giờ

Trẻ em ≥ 1 tuổi và người lớn

30 phút

2 tiếng rưỡi

(c) Lặp lại một lần nếu bắt mạch vẫn yếu hoặc không có sau lần tiêm truyền đầu tiên.

Trong trường hợp nghi ngờ thiếu máu nặng, đo huyết sắc tố và điều trị phù hợp (xem thiếu máu). Ngay khi bệnh nhân có thể uống một cách an toàn (thường trong vòng 2 giờ), cho uống ORS khi bệnh nhân dung nạp được. ORS chứa glucose và chất điện giải ngăn ngừa sự phát triển của các biến chứng.

Giám sát chặt chẽ các tổn thất đang diễn ra. Đánh giá tình trạng lâm sàng và mức độ mất nước đều đặn để đảm bảo tiếp tục điều trị thích hợp.

Trong quá trình điều trị bệnh nhân

Vẫn còn hoặc trở nên hôn mê: đo mức đường huyết và/hoặc điều trị hạ đường huyết (xem Hạ đường huyết).

Phát triển chuột rút/yếu cơ và chướng bụng: điều trị hạ kali máu vừa phải với xi-rô kali clorua 7,5% (1 mmol K+/ml) PO trong 2 ngày:

Trẻ em dưới 45 kg: 2 mmol/kg (2 ml/kg) mỗi ngày (tùy theo cân nặng mà chia liều hàng ngày thành 2 hoặc 3 lần) Trẻ em từ 45 kg trở lên và người lớn: 30 mmol (30 ml) 3 lần mỗi ngày.

Phương pháp điều trị này chỉ nên được áp dụng cho bệnh nhân nội trú.

Phát triển phù quanh ổ mắt hoặc ngoại vi: giảm tốc độ truyền đến mức tối thiểu, nghe phổi, đánh giá lại giai đoạn mất nước và sự cần thiết phải tiếp tục bù nước qua đường tĩnh mạch. Nếu vẫn cần bù nước IV, hãy tiếp tục truyền với tốc độ chậm hơn và quan sát bệnh nhân chặt chẽ. Nếu bù nước qua đường tĩnh mạch không còn cần thiết, chuyển sang điều trị bằng ORS đường uống.

Phát triển khó thở, ho và nghe thấy tiếng ran hai bên khi nghe phổi: cho bệnh nhân ngồi dậy, giảm tốc độ truyền xuống mức tối thiểu và tiêm một liều furosemide IV (1 mg/kg ở trẻ em; 40 mg ở người lớn). Theo dõi chặt chẽ bệnh nhân trong hơn 30 phút và đánh giá bệnh lý tim mạch hoặc bệnh thận tiềm ẩn. Khi bệnh nhân đã ổn định, đánh giá lại mức độ mất nước và sự cần thiết phải tiếp tục bù nước qua đường tĩnh mạch. Nếu vẫn cần bù nước qua đường tĩnh mạch, hãy bắt đầu lại với tốc độ bằng một nửa tốc độ truyền trước đó và theo dõi chặt chẽ. Nếu bù nước qua đường tĩnh mạch không còn cần thiết, chuyển sang điều trị bằng ORS đường uống.

Mất nước:

Cho uống ORS theo Kế hoạch Điều trị B của WHO tương đương với 75 ml/kg ORS trong 4 giờ.

Khuyến khích bổ sung lượng dịch phù hợp với lứa tuổi, bao gồm cả việc cho trẻ bú sữa mẹ. Cho uống thêm ORS sau mỗi lần đi tiêu lỏng.

Giám sát chặt chẽ các tổn thất đang diễn ra. Đánh giá tình trạng lâm sàng và mức độ mất nước đều đặn để đảm bảo tiếp tục điều trị thích hợp.

Không mất nước:

Ngăn ngừa mất nước:

Khuyến khích lượng chất lỏng phù hợp với lứa tuổi, bao gồm cả việc cho con bú ở trẻ nhỏ. Cho uống ORS theo Phác đồ điều trị A của WHO sau khi đi ngoài phân lỏng.

Kế hoạch điều trị A của WHO:

Trẻ em < 2 tuổi: 50 đến 100 ml (10 đến 20 thìa cà phê).

Trẻ em từ 2 đến 10 tuổi: 100 đến 200 ml (½ đến 1 ly).

Trẻ em > 10 tuổi và người lớn: ít nhất 250 ml (ít nhất 1 ly).

Điều trị tiêu chảy

Ngoài kế hoạch điều trị của WHO tương ứng với mức độ mất nước của bệnh nhân: Thực hiện điều trị căn nguyên nếu cần.

Cho trẻ dưới 5 tuổi dùng kẽm sulfat (xem Tiêu chảy cấp).

Chú thích:

(a) Nếu không có RL, có thể sử dụng natri clorua 0,9%.

(b) Nếu cần truyền máu, nó phải được cung cấp song song với chất lỏng IV, sử dụng một đường IV riêng biệt. Thể tích máu được cung cấp nên được khấu trừ khỏi tổng thể tích của Kế hoạch C.

(c) Nếu có thể, hãy làm xét nghiệm máu để theo dõi nồng độ urê và chất điện giải.

(d) Để biết thêm thông tin chi tiết về các khuyến nghị ORS theo độ tuổi và cân nặng.

Bài viết cùng chuyên mục

Phác đồ điều trị viêm thanh quản và viêm thanh khí phế quản

Viêm thanh khí phế quản được coi là nghiêm trọng nếu có tiếng thở khò khè khi nghỉ ngơi, đặc biệt khi nó đi kèm với suy hô hấp. Thở khò khè cũng có thể xuất hiện nếu có liên quan đến phế quản.

Phác đồ điều trị suy dinh dưỡng cấp tính nặng

Suy dinh dưỡng cấp tính nặng (SAM) là kết quả của việc không đủ năng lượng (kicalories), chất béo, protein và/hoặc các chất dinh dưỡng khác (vitamin và khoáng chất, v.v.) để đáp ứng nhu cầu cá nhân.

Phác đồ điều trị thiếu máu

Thiếu máu được định nghĩa là mức huyết sắc tố (Hb) thấp hơn các giá trị tham chiếu, thay đổi tùy theo giới tính, tuổi tác và tình trạng mang thai.

Phác đồ điều trị đau

Đau thể hiện khác nhau bởi mỗi bệnh nhân tùy thuộc vào từng cá thể, đó là một trải nghiệm chủ quan, nghĩa là chỉ cá nhân mới có thể đánh giá mức độ đau.

Phác đồ điều trị sốt mới nhất

Sốt được xác định khi nhiệt độ ở nách cao hơn hoặc bằng 37,5 độ C, sốt thường do nhiễm trùng, trước tiên hãy tìm kiếm các dấu hiệu của bệnh nghiêm trọng, sau đó cố gắng thiết lập chẩn đoán.

Phác đồ điều trị hạ đường huyết

Hạ đường huyết là tình trạng nồng độ glucose trong máu thấp bất thường. Hạ đường huyết nghiêm trọng có thể gây tử vong hoặc dẫn đến tổn thương thần kinh không hồi phục.

Phác đồ điều trị co giật

Các cử động không chủ ý có nguồn gốc từ não (cứng đơ, sau đó là các cử động co giật), kèm theo tình trạng mất ý thức và thường là tiểu không tự chủ (co giật co cứng-co giật toàn thể).

Phác đồ điều trị sốc

Suy tuần hoàn cấp tính dẫn đến tưới máu mô không đầy đủ, nếu kéo dài sẽ dẫn đến suy cơ quan không hồi phục. Tỷ lệ tử vong cao nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm.