Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn

2016-10-01 04:17 PM

Theo lập luận thì các nguyên nhân gây bệnh là chlamydia, mycoplasma, ureaplasma, và virus, song không có bằng chứng thực sự nào tồn tại.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Có các triệu chứng kích thích bài tiết.

Khó chịu vùng đáy chậu hoặc trên xương mu, tương tự như triệu chứng của viêm tuyền tiền liệt mạn tính do vi khuẩn.

Có các chất tiết tuyến tiền liệt khi bóp, nhưng kết quả cấy âm tính.

Nhận định chung

Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn là bệnh hay gặp nhất trong các hội chứng viêm tuyến tiền liệt, và nguyên nhân của nó vẫn chưa rõ. Theo lập luận thì các nguyên nhân gây bệnh là chlamydia, mycoplasma, ureaplasma, và virus, song không có bằng chứng thực sự nào tồn tại. Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn được cho là đại diện cho một bệnh viêm không nhiễm trùng. Một số nhà nghiên cứu tin rằng nó là một bệnh tự miễn. Do đó, viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn là một chẩn đoán loại trừ.

Triệu chứng và dấu hiệu

Biểu hiện lâm sàng đồng nhất với biểu hiện của bệnh viêm tuyến tiền liệt mạn tính do vi khuẩn; tuy nhiên người bệnh không có tiền sử mắc các nhiễm trùng đường niệu.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Các chất tiết của tuyến tiền liệt được ép ra thấy có tăng số lượng bạch cầu, nhưng khi cấy tất cả đều âm tính.

Chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán phân biệt chính là với viêm tuyến tiền liệt mạn tính do vi khuẩn. Tiền sử nhiễm trùng đường niệu và các kết quả cấy dương tính sẽ giúp cho việc phân biệt. Ở nam giới nhiều tuổi có các triệu chứng kích thích bài tiết và các kết quả cấy âm tính, cần phải phân biệt với ung thư bàng quang. Phải làm xét nghiệm tế bào niệu học và soi bàng quang để phân biệt.

Điều trị

Bởi vì căn nguyên của viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn vẫn chưa rõ ràng, nên phải điều trị thử bằng liệu pháp kháng khuẩn đối với ureaplasma, mycoplasma, hoặc chlamydia. Erythromycin (250 mg uống 4 lần/ngày) có thể dùng khởi đầu trong 14 ngày nhưng chỉ được tiếp tục (trong 3 - 6 tuần) nếu có đáp ứng lâm sàng tốt. Các thuốc kháng viêm hoặc ngồi ngâm mông trong nước nóng có thể làm giảm một số triệu chứng. Ăn tiết chế là không cần thiết trừ khi người bệnh có tiền sử tăng triệu chứng khi ăn các chất hoặc thức ăn nào đó như rượu, cà phê.

Bảng. Các đặc trưng lâm sàng của viêm tuyến tiền liệt và các hội chứng đau tuyến tiền liệt

 Các đặc trưng lâm sàng của viêm tuyến tiền liệt và các hội chứng đau tuyến tiền liệt

Tiên lượng

Khó chịu, các triệu chứng tái phát là phổ biến nhưng hậu quả nghiêm trọng thì vẫn chưa được xác định.

Bài viết cùng chuyên mục

Khối u tinh hoàn

Trong khi nguyên nhân của ung thư tinh hoàn còn chưa rõ, cả yếu tố bẩm sinh và mắc phải cũng đi kèm với sự phát triển khối u.

Khối u ở thận

Những khối u thận thường được phát hiện đầu tiên bằng chụp hệ tiết niệu cản quang qua đường tĩnh mạch. Muốn đánh giá sâu hơn thì cần siêu âm để xác định xem u dạng rắn hay u dạng nang.

Ung thư niệu quản và bể thận

Những khối u bể thận và niệu quản phải được phân biệt với sỏi, cục máu, hoại tử nhú hoặc viêm, hoặc các tổn thương nhiễm trùng.

Bệnh học ung thư bàng quang

Phân tích nước tiểu sẽ phát hiện huyết niệu ở đa số các trường hợp, đôi khi, có thể kèm theo mủ niệu, vô niệu có thể có ở số lượng nhỏ.

Ung thư tuyến tiền liệt

Hầu hết các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ở nam giới đều không có triệu chứng rõ rệt mà chỉ có các cục khu trú hoặc những vùng rắn cứng.

Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính

Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có thể có các triệu chứng bài tiết kích thích và tắc nghẽn. Các triệu chứng tắc nghẽn bao gồm giảm áp lực và khẩu kính dòng nước tiểu, dòng nước tiểu ngắt quãng, và lưỡng lự đi tiểu.

Vô sinh nam

Nên phân tích tinh dịch sau 72 giờ kiêng không sinh hoạt tình dục. Nên phân tích mẫu tinh dịch trong vòng 1 giờ sau thu thập. Nồng độ tinh trùng bất thường là < 20 triệu/ml.

Bệnh sỏi tiết niệu

Chế độ ăn và dịch uống có thể là các yếu tố quan trọng trong sự phát triển của sỏi niệu. Người bị bệnh sỏi niệu tái phát được khuyến khích, duy trì một chế độ ăn hạn chế muối và protein.

Viêm mào tinh hoàn cấp

Siêu âm bìu có thể hỗ trợ trong chẩn đoán nếu việc thăm khám khó khăn do thủy tinh mạc hoặc có các vấn đề còn tồn đọng liên quan đến chẩn đoán.

Viêm tuyến tiền liệt mạn tính do vi khuẩn

Bệnh hậu môn có thể có chung một số triệu chứng như viêm tuyến tiền liệt, và khám thực thể sẽ phân biệt được chúng.

Viêm tuyến tiền liệt cấp do vi khuẩn

Công thức máu đầy đủ cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Phân tích nước tiểu thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau.

Viêm thận bể thận cấp

Công thức máu toàn phần cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Xét nghiệm nước tiểu có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau. Các trụ bạch cầu có thể có.

Viêm bàng quang cấp

Xét nghiệm nước tiểu cho thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu và các mức độ đái máu khác nhau. Mức độ mủ niệu và vi khuẩn niệu không nhất thiết tương quan với mức độ nặng của các triệu chứng.

Rối loạn chức năng cương cứng nam giới và rối loạn chức năng tình dục

Mất cương cứng có thể do các nguyên nhân động mạch, tĩnh mạch, thần kinh hoặc tâm sinh, Các bệnh đang mắc có thể làm ảnh hưởng đến một hoặc nhiều cơ chế.

Mất chủ động tiểu tiện

Khai thác bệnh sử và tiền sử là bước quan trọng nhất trong đánh giá mất chủ động tiểu tiện. Nhật ký bài tiết do người bệnh chuẩn bị cũng có thể hỗ trợ cho đánh giá này.

Đau tuyến tiền liệt

Xét nghiệm nước tiểu bình thường sẽ phân biệt được với các quá trình nhiễm trùng cấp tính. Xét nghiệm các chất tiết tuyến tiền liệt được bóp ra sẽ phân biệt được.

Các nhiễm trùng đường sinh dục tiết niệu

Các nhiễm trùng đầu tiên là các nhiễm trùng lần đầu ở phụ nữ trẻ tuổi, Vi khuẩn niệu không giải quyết được xuất hiện khi đường niệu không được vô trùng trong suốt quá trình điều trị.

Tiếp cận và đánh giá đái máu

Các triệu chứng kích thích bài tiết, vi khuẩn niệu, và kết quả cấy nước tiểu dương tính ở nữ giới hướng đến nhiễm trùng đường tiết niệu.

Xét nghiệm nước tiểu đánh giá bệnh niệu học

Xét nghiệm nước tiểu bằng qụe đo mực nước không có vai trò gì trong việc sàng lọc các bệnh đường tiết niệu ở những người trưởng thành không có triệu chứng ngoại trừ phụ nữ mang thai.

Khám thực thể đánh giá bệnh niệu học

Bởi vì bên phải có gan, nên thận phải thấp hơn so với thận trái. Cực dưới của thận phải có thể sờ thấy được ở những bệnh nhân gầy, nhưng thận trái thường không sờ thấy được.

Đánh giá về bệnh sử niệu học

Đau niệu quản thường là cấp tính và do tắc nghẽn. Sự căng lên đi cùng với tăng nhu động và co thắt cơ trơn của niệu quản có thể dẫn đến hai kiểu đau khác nhau.