- Trang chủ
- Dược lý
- Cây thuốc và vị thuốc cầm máu
- Cây thiến thảo (thiên căn)
Cây thiến thảo (thiên căn)
Cây mọc hoang dại ở những vùng núi cao mát nhu Sapa, Nghĩa Lộ, Lai Châu. Người ta đào rẽ vào thu đông, rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Còn gọi là lây thảo, mao sáng (mèo), thiên căn, thiến cân.
Tên khoa học Rubia cordifolia L.
Thuộc họ Cà phê Ritbiacae.
Mô tả cây
Cây thiến thảo
Cây mọc leo, sống lâu năm, rễ sống dai, thân vuông, có gai rất nhỏ, mọc quặp xuống. Lá mọc vòng 4 lá một (thực tế là lá mọc đối, với lá kém phát triển trông như 4 lá mọc vòng). Phiến lá hình bầu dục, đầu nhọn, dài 2-4cm, rộng 2,5-3cm, mép cũng có gai, gân lá hình cung. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, mọc thành xim dài 3-20cm ở đầu cành hay kẽ lá. Quả tròn, màu đen, khi chín, trong chứa 1-2 hạt hình cầu, đường kính 4mm, hõm ở giữa, lưng phình lên. Mùa hoa quả: tháng 9-11.
Phân bố, thu hái và ché biến
Cây mọc hoang dại ở những vùng núi cao mát nhu Sapa, Nghĩa Lộ, Lai Châu. Người ta đào rẽ vào thu đông, rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô.
Thành phần hóa học
Trong rễ thiến thảo có chứa một chất glucozit, axit rutherythric, alizarin, một ít purpurin, rubíadin, glucoza.
Dưới tác dụng của men (erythroán hay rubiaza) axit ruberythric sẽ tách ra thành glucoza và alizazin hay dioxyanthraquinon, purpurin là một trioxyanthraquinon, chất glucozit sinh ra purpurin chưa tách được ra, rubiađin là một metylpurpuroxanthin. Chất purpuroxanthin trong Rubìa sikkimensis là một đồng phân màu vàng của alizarin và là một dioxyanthraquinon.
Công dụng và liều dùng
Thiến thảo là một vị thuốc bổ, lợi tiểu, giúp ăn ngon cơm, điều kinh. Còn dùng chữa thổ huyết, tiểu tiện ra máu, chảy máu cam. Ngày dùng 2 đến 5g dưới dạng thuốc bột, có thể chế thành cao nước mểm dùng với liều 0,30 đến 1g một ngày. Uống thuốc này, xương những người uống cũng có màu đỏ.