Những ảnh hưởng sinh lý của gây mê phẫu thuật

2015-12-31 08:38 PM

Không có bằng chứng rằng gây tê ngoài màng cứng hoặc tủy sống có ưu thế hơn gây mê toàn thân về mặt cung lượng tim hoặc kết quả phẫu thuật chung.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Một tỷ lệ không cân xứng những bệnh nhân này là trên 65 tuổi. Hầu hết bệnh nhân đều không có các biến chứng của thủ thuật hoặc gây mê. Tuy nhiên, khoảng 3 đến 10 phần trăm bệnh nhân phải chịu những biến chứng mà đa số là biến chứng tim, phổi hoặc nhiễm trùng.

Vai trò của người tư vấn y tế bao gồm định rõ tình trạng bệnh nhân, đánh giá mức độ nặng và tính ổn định của những tình trạng này, đưa ra nguy cơ phẫu thuật và khuyến cáo đánh giá trước phẫu thuật đó làm giảm nguy cơ phẫu thuật.

Những biến chứng của gây mê và phẫu thuật phần lớn là hậu quả của những ảnh hưởng sinh lý đã biết. Cả gây mê toàn thân và gây tê ngoài màng cứng thường gây giãn mạch ngoại biên và thường gặp nhất trong gây mê toàn thân là làm giảm co cơ tim. Những ảnh hưởng này thường dẫn đến hạ huyết áp tương đối, thoáng qua hoặc ít gặp hơn là hạ huyết áp kéo dài. Giảm thể tích khí lưu thông (Vt) do gây mê và gây tê ngoài màng cứng có thể đóng các đường dẫn khí nhỏ và dẫn đến xẹp phổi. Mức epinephrìn và norepinephrin tăng trong phẫu thuật và vẫn còn tăng trong vòng 1 hoặc 2 ngày sau, Nói chung mức cortisol tăng trong 1-3 ngày và mức hormon chống bài niệu có thể tăng kéo dài một tuần sau phẫu thuật.

Không có bằng chứng rằng gây tê ngoài màng cứng hoặc tủy sống có ưu thế hơn gây mê toàn thân về mặt cung lượng tim hoặc kết quả phẫu thuật chung. Nhìn chung, lựa chọn kỹ thuật hoặc thuốc là tuỳ vào bác sỹ gây mê.

Các danh mục

Chẩn đoán và điều trị y học tuổi già

Tiếp cận bệnh nhân dự phòng và các triệu chứng chung

Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư

Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ

Chẩn đoán và điều trị bệnh mắt

Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng

Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp

Chẩn đoán và điều trị bệnh tim

Chẩn đoán và điều trị bệnh mạch máu và bạch huyết

Chẩn đoán và điều trị bệnh máu

Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa

Chẩn đoán và điều trị bệnh tuyến vú

Chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa

Chẩn đoán và điều trị sản khoa

Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn miễn dịch và dị ứng

Đánh giá trước phẫu thuật

Chăm sóc giai đoạn cuối đời

Chẩn đoán và điều trị bệnh gan mật và tụy

Chẩn đoán và điều trị rối loạn nước điện giải

Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân bị bệnh thận

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ niệu học

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ thần kinh

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn tâm thần

Chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết

Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng

Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm

Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán

Chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng do nấm