- Trang chủ
- Phác đồ - Test
- Phác đồ điều trị bệnh lý thận tiết niệu
- Phác đồ điều trị đái máu
Phác đồ điều trị đái máu
Nhận định chung
Đái máu là tình trạng nước tiểu có máu. Có đái máu đại thể và đái máu vi thể.
Đái máu đại thể: khi nước tiểu đỏ sẫm màu, nhận biết được bằng mắt thường.
Đái máu vi thể: mắt thường không nhận thấy, chỉ phát hiện được khi làm xét nghiệm tế bào học nước tiểu với số lượng hồng cầu > 10.000 hồng cầu/ml.
Phác đồ điều trị đái máu
Điều trị triệu chứng
Thuốc cầm máu:
Transamin đường uống hoặc truyền tĩnh mạch.
Truyền máu nếu mất nhiều máu.
Kháng sinh nếu có dấu hiệu nhiễm trùng: Sulfamid, Quinolone, có thể phối hợp với nhóm khác tùy theo diễn biến lâm sang và kết quả cấy vi khuẩn máu và nước tiểu.
Tùy thuộc vào nguyên nhân gây đái máu cần phối hợp thêm thuốc khác.
Ngoại khoa
Trong một số trường hợp nếu có tắc nghẽn nhiều đường tiết niệu do máu cục tạo thành, cần can thiệp ngoại khoa tạm thời dẫn lưu, lấy máu cục tại bàng quang, trước khi giải quyết nguyên nhân.
Điều trị nguyên nhân
Can thiệp ngoại khoa tùy vào nguyên nhân đái máu và tình trạng lâm sàng cụ thể của bệnh nhân.
Phòng bệnh
Nên khám và kiểm tra định kỳ để phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời.
Bài mới nhất
Phác đồ điều trị thiếu máu bằng Erythopoietin ở bệnh thận mãn
Phác đồ điều trị thiếu máu ở bệnh thận mãn
Phác đồ điều trị suy thận cấp
Phác đồ điều trị tổn thương thận cấp
Phác đồ điều trị tăng huyết áp trong bệnh thận mạn
Phác đồ điều trị tăng kali máu trong bệnh thận
Phác đồ điều trị bệnh thận đa nang
Phác đồ điều trị nang đơn thận
Phác đồ điều trị viêm tuyến tiền liệt cấp
Phác đồ điều trị viêm ống kẽ thận cấp
Phác đồ điều trị viêm niệu đạo cấp không do lậu
Phác đồ điều trị viêm bàng quang cấp
Phác đồ điều trị ứ nước ứ mủ bể thận
Phác đồ điều trị nội khoa sỏi thận tiết niệu
Phác đồ điều trị viêm thận bể thận cấp
Thiếu máu ở người bệnh suy thận mạn, dẫn đến gia tăng nguy cơ bệnh tật, và tử vong, điều trị thiếu máu ở người bệnh suy thận mạn là mục tiêu quan trọng trong.
Thiếu máu gây tăng tỷ lệ tử vong, tăng phì đại thất trái, và suy tim xung huyết, tăng tốc độ tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối.
Suy thận cấp có tỉ lệ từ vong cao, nhưng nếu được chẩn đoán, và điều trị kịp thời, thì chức năng thận có thể hồi phục hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn.
Tương tác giữa tổn thương cấp, và mạn tính trong bệnh thận, cũng góp phần bởi cơ chế tự hồi phục mạnh mẽ của thận, nhưng không không giống nhau.
Thận trọng khi đánh giá ban đầu tình trạng người bệnh, và thường xuyên tái đánh giá người bệnh, rất cần thiết để điều trị hiệu quả hạ áp, và sử dụng các tác nhân hạ áp.
Một số nguyên nhân gây tăng Kali máu, do sự chuyển dịch từ nội bào ra ngoại bào, giảm bài tiết Kali do bệnh lý ở thận, do bệnh tuyến thượng thận.
Bệnh thận nang có thể kết hợp với nang gan, và các bất thường tim mạch, bệnh thường dẫn tới suy thận giai đoạn cuối.
Các nang thận có thể xuất hiện tại vùng vỏ thận, vùng tủy thận nhu mô thận, nguyên nhân của nang đơn thận đến nay vẫn chưa được biết rõ.
Viêm tiền liệt tuyến cấp tính, là một tình trạng nhiễm khuẩn nặng, nếu điều trị sớm, đúng, đủ liều, và đủ thời gian thì bệnh vẫn có thể khỏi hoàn toàn.
Thường gặp nhất là do những tác dụng ngoại ý, của một số thuốc khi sử dụng trên một số cơ địa đặc biệt, như thuốc kháng viêm không stéroids, thuốc hạ huyết áp.
Viêm niệu đạo cấp thường khỏi hẳn, nếu được điều trị từ sớm, và đúng, nếu không được điều trị từ sớm có thể dẫn tới viêm bàng quang hoặc thận bể thận.
Nhóm Fluoroquinolones không phải là lựa chọn đầu tay, trừ khi điều trị các kháng sinh khác thất bại, hoặc đã tái phát.
Ở người lớn, tắc nghẽn đường tiểu chủ yếu do các nguyên nhân mắc phải, sỏi thận, và sỏi niệu quản là nguyên nhân hay gặp, ngoài ra là hẹp niệu quản.
Loại sỏi phosphat thường gặp, là loại amoni-magné-phosphat, loại sỏi này có kích thước lớn, hình san hô, cản quang, hình thành do nhiễm khuẩn.
Các trường hợp nhẹ, có thể điều trị, và theo dõi ngoại trú, cần cấy vi khuẩn niệu, máu trước khi bắt đầu dùng kháng sinh.