Tác giả công trình nghiên cứu y học

2014-04-25 12:42 PM

Tác giả ở vị trí thứ nhất là người thực hiện phần chính của công trình hay là người chỉ đạo thực hiện nghiên cứu. Đó là người viết bản thảo bài báo.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Khi một tạp chí có uy tín chấp nhận một bài báo là đồng nghĩa với sự công nhận tính nghiêm túc và tính chính xác của một công trình. Việc đăng bài báo là kết quả cuả điều đó và rất bình thường là tác giả của bài báo đó sẽ được biết tới. Việc tham gia với tư cách là tác giả các bài báo được đăng là một yếu tố quan trọng trong sự thăng tiến nghề nghiệp. cVì những lý do đó, tên của một hay nhiều tác giả được đặt ngay dưới tên bài báo. Việc sử dụng tên tác giả phải tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ.

Ai là tác giả?

Về lý thuyết câu trả lời thật đơn giản: tác giả là người đã viết bài báo. Trong thực tế vấn đề thường phức tạp hơn vì một tác giả hầu như không bao giờ làm việc một mình và các thành viên trong nhóm làm việc muốn sự tham gia của họ vào công trình phải được công nhận chính thức; nhiều người mong muốn tên của họ xuất hiện trong phần tên tác giả để có thể được thăng tiến hay được ghi nhận trong nghiên cứu. Vì vậy có xu hướng là một công trình mang rất nhiều tên tác giả. Số lượng trung bình các đồng tác giả một bài báo không ngừng tăng lên. Ngược lại, tỷ lệ phần trăm bài báo viết bởi một tác giả trong tạp chí New England Journal of Medicine giảm từ 49% năm 1946 xuống 4% năm 1977; tình trạng tương tự cũng xảy ra ở tạp chí Lancet giữa 1930 và 1975.

Tác giả ở vị trí thứ nhất

Tác giả ở vị trí thứ nhất là người thực hiện phần chính của công trình hay là người chỉ đạo thực hiện nghiên cứu. Đó là người viết bản thảo bài báo. Nếu người đó thực hiện công trình và viết một mình thì đó là tác giả duy nhất của bài báo. Điều này rất hiếm xảy ra với một công trình nghiên cứu khoa học nhưng đó lại là quy tắc với bài xã luận.

Tên của chủ nhiệm khoa hay trưởng phòng xét nghiệm

Tên của chủ nhiệm khoa hay trưởng phòng xét nghiệm thường xuất hiện trong nhóm tên tác giả khi đó là người đề ra ý tưởng nghiên cứu, tập hợp nhóm nghiên cứu, tìm nguồn tài chính khi cần thiết để thực hiện công trình. Thường tên của những người này được đặt ở vị trí cuối cùng. Nó có tác dụng bảo lãnh khi những tác giả khác trong công trình còn chưa được biết tới rộng rãi trong cộng đồng khoa học. Khi một chủ nhiệm khoa hay trưởng phòng xét nghiệm chấp nhận đứng tên trong một bài báo, điều đó có nghĩa người đó đã kiểm chứng quá trình nghiên cứu, xác định tính khách quan của các kết quả và chất lượng viết bài báo. Đòi hỏi bắt buộc này là điều rất khó thực hiện do thường khó mà theo dõi một cách chặt chẽ việc thực hiện đúng đắn quá trình nghiên cứu đặc biệt là trong những phòng xét nghiệm lớn, nơi có nhiều đề tài được đồng thời tiến hành. Nó đòi hỏi ít nhất một chủ nhiệm khoa hay trưởng phòng xét nghiệm khi chấp nhận đứng tên trong một bài báo phải chịu trách nhiệm về bài báo và những phê bình nếu có. Vì lý do này, có những tạp chí bắt buộc mỗi tác giả phải ký tên đảm bảo trách nhiệm của mình về bài báo.

Tất cả các công trình đăng tải phải được tác giả hay những đồng tác giả ký tên bảo đảm trách nhiệm của mình, sẵn sàng chấp nhận các nhận xét, phê bình, nhưng cũng được hưởng sự nổi tiếng nhờ việc đăng tải công trình mang lại.

Theo thoả thuận nhóm Vancouver, những người ký tên vào một bài báo phải đồng thời:

1) Đã tham gia và tổ chức công trình nghiên cứu dẫn tới bài báo hay đã phân tích, đánh giá các kết quả.

2) Đã tham gia chính vào việc biên soạn bàn thảo đầu tiên hay sửa các bản thảo tiếp theo.

3) Đã chấp nhận bản thảo chính thức.

Các tác giả khác

Các tác giả khác phải tham gia tuỳ mức độ vào nghiên cứu và vào việc biên soạn bài báo. Việc bài báo có nhiều tác giả không có ảnh hưởng rõ ràng với người đọc. Lý do của xu hướng này có nhiều: làm việc theo nhóm sự tham gia ngày càng nhiều hơn của những chuyên gia khác nhau khi họ được xin ý kiến dù chỉ với một thông báo lâm sàng; nhất là vai trò của việc có bài đăng báo trong cuộc đời khoa học, điều này do khái niệm "đăng báo hay là chết". Có 3 cách đơn giản để tăng số bài đăng báo của một tác giả: Đăng những bài báo có ít lợi ích, nhân lên nhiều tác giả cho một bài báo hay chia một bài thành nhiều bài khác nhau. Tăng số lượng tác giả sẽ giúp cho một đồng nghiệp có cơ hội thăng tiến và đến lượt họ cũng sẽ làm như thế với mình. Cách làm này có vẻ rất hấp dẫn và có hiệu quả. Tuy nhiên các hội đồng giữ quyền đánh giá sự tham gia của mỗi tác giả vào công trình: nếu có nhiều tác giả quá thường bài báo đó bị chỉ trích hay nghi ngờ.

Có những tạp chí bắt đầu lo ngại về sự bùng nổ số lượng tác giả. Họ luôn chấp nhận danh sách đầy đủ tên tác giả ở đầu bài báo nhưng hạn chế số lượng tên tác giả trong phần tài liệu tham khảo khi số lượng này quá nhiều. Uỷ ban quốc tế của các ban biên tập báo y học (International Committee of Medical Journal Editors) đã đồng ý chấp nhận đăng trong phần tài liệu tham khảo tên của tất cả tác giả một bài báo nếu số lượng thấp hơn bảy và khi số tác giả từ bảy trở lên thì chỉ nêu tên sáu người đầu; sau đó ghi "et al".

Các nghiên cứu nhiều trung tâm

Khi các công trình được thực hiện bởi một nhóm rất nhiều người thực hiện, như trong một nghiên cứu nhiều trung tâm, giải pháp áp dụng là tuỳ theo quy định riêng trong nhóm hay quy định của tạp chí mà công trình sẽ đăng. Nói chung, các tác giả có tên trong bài báo là những người bằng cách này hay cách khác đóng góp nhiều nhất vào nghiên cứu. Tên của những tác giả này đi kèm với tên của nhóm nghiên cứu và địa chỉ. Tạp chí New England Journal of Medicine giới hạn 12 tác giả cho một nghiên cứu nhiều trung tâm. Những người tham gia khác được cảm ơn chung ở cuối bài báo: "Phân tích đa chiều các yếu tố tiên lượng ung thư trực tràng còn khả năng phẫu thuật" L. S. Freedman, P. Mucaskill, A. N. Smith. Medical Research Council cancer trials office, MRC Centre Cambridge and Department of Surgery ..." và ở cuối bài báo "Chúng tôi cảm ơn tất cả các phẫu thuật viên, kỹ thuật viên xạ trị, các nhà giải phẫu bệnh học ...".

Ngược lại, có những nghiên cứu nhiều trung tâm sử dụng tên hay ký hiệu viết tắt của một hay những tổ chức tham gia vào nghiên cứu. "Nang nước gan do sán được mổ ở Pháp ... Association Universitaire de recherche en chirurgie ...". Danh sách những người tham gia nghiên cứu được ghi ở cuối trang đầu hay cuối
bài báo. Thứ tự đăng tên có thể theo vần A, B, C hay theo tầm quan trọng của sự tham gia vào nghiên cứu.

Có những cách trung gian giữa hai loại trên: một dạng là sau tên bài báo là tên của nhóm điều hành rồi đến tên các tác giả tham gia chính vào nghiên cứu. Tạp chí New England Journal Medicine đòi hỏi ít nhất có một tên tác giả trước tên nhóm, Ví dụ "M Thelma J Smith, Louise L Jones and Duane J Brown, đại diện nhóm The Boston Porphyria Study group".

Cũng có thể đăng ở cuối trang đầu sự tham gia của từng người "Chủ tịch nhóm nghiên cứu L.Gennari; Uỷ ban soạn thảo: G. Bonfanta, F.Bozzetti..., nhóm phân tích số liệu: G. Menazzanote..., Những cơ sở tham gia và các thành viên chính:.."

Tác giả hay người tham gia?

Một số thống kê thực hiện ở Anh (Trường Đại Học Y Khoa Newcastle) chỉ ra rằng những chỉ tiêu để trở thành một tác giả ít khi được biết tới mà khi biết thì không được áp dụng. Từ những kết quả này cùng với những phê bình, đề nghị của một trong những nhà biên tập của tạp chí JAMA, Drummond Rennie và từ những cuộc họp của nhóm Vancouver đã cho ra đời thuật ngữ người tham gia. Sẽ là sáng suốt khi ghi rõ với vài từ ngắn gọn vai trò chính xác của từng người trong một bài báo. Ví dụ "người đã thực hiện các thí nghiệm miễn dịch học, người đã phân tích các kết quả, người đã viết quy trình và theo dõi đề tài". Từ năm 1997, một số tạp chí trong đó có tạp chí Lancet và Britisch Medical Journal đã thêm chú thích về vai trò của những người tham gia ở cuối bài đăng công trình nghiên cứu, tên của các tác giả vẫn được đặt ở sau đầu đề bài báo.

Lời cám ơn

Việc cảm ơn những người giúp đỡ thực hiện đề tài, nhưng sự đóng góp của họ không phải với tư cách là đồng tác giả ví dụ như đối với nhà giải phẫu bệnh hay nhà điện quang mà các xét nghiệm của họ giúp xác lập chẩn đoán là điều bình thường theo phép lịch sự. Lời cảm ơn cũng dành cho những ai giúp đỡ về tài chính, lời cảm ơn dành cho sự giúp đỡ kỹ thuật khi thao tác, giúp thu thập tài liệu hay đánh máy bản thảo được trình bày ở một phần riêng. Phải cảm ơn Chủ nhiệm khoa khi người đó không tham gia vào công trình. Sự đồng ý bằng văn bản của người được cảm ơn là một điều bình thường, một số tạp chí bắt buộc phải có sự đồng ý này.

Các tạp chí có quy định về nơi ghi lời cảm ơn ở cuối trang, phần phụ lục hay ở cuối bài báo trước phần tài liệu tham khảo. Khi gửi bài để đăng, tên của những người được cảm ơn được đặt ở một trang riêng. Khi bỏ trang này thì hội đồng duyệt bản thảo của tạp chí mà bài báo gửi đến có thể đánh giá bài báo một cách khách quan. Lời cảm ơn không nên có những từ ngữ chủ quan, cảm tính. Khi bạn muốn cảm ơn bác sĩ X đã thực hiện các xét nghiệm giải phẫu bệnh trong công trình của mình, không nên viết "chúng tôi cảm ơn bạn đồng nghiệp kính mến bác sĩ X mà sự hợp tác tuyệt vời đã cho phép có được những thông tin không thể thiếu về giải phẫu bệnh lý..." mà hãy viết "Chúng tôi cảm ơn bác sĩ X, người đã thực hiện các xét nghiệm giải phẫu bệnh".

Lời cảm ơn cần phải ngắn. Tạp chí New England Journal of Medicine đã lấy ví dụ một nghiên cứu nhiều trung tâm tổng cộng có 12 trang, trong đó 5 trang là lời cảm ơn! Lời cảm ơn nên giới hạn ở một cột, khoảng 600 từ. Chỉ nên cảm ơn mỗi người tham gia một lần. Tên các uỷ ban, số lượng các trường hợp của từng điều tra viên, đóng góp của từng trung tâm không nên liệt kê ra.

Yếu cầu gửi báo biếu

Có những tạp chí yêu cầu ghi rõ tên của tác giả nhận báo gửi biếu, thường ghi ở cuối trang nhất của bài báo.

Chấp nhận cung cấp báo biếu có nghĩa là chấp nhận gửi cho những người yêu cầu mỗi người một bản. Điều chấp nhận có vẻ bình thường này đôi khi khó thực hiện được. Trên thực tế, trong khi phần lớn các tạp chí cung cấp các bản báo biếu (từ 50 - 100 bản) miễn phí thì có những tạp chí yêu cầu trả tiền. Hơn nữa, cước vận chuyển tới những địa chỉ ở nước ngoài nếu có nhiều người yêu cầu có thể tăng cao.

Để cẩn thận, nên từ chối cung cấp báo biếu nếu mình không chắc chắn có thể đáp ứng theo yêu cầu bằng cách ghi ở cuối trang thứ nhất của bài báo: "không cung cấp báo biếu". Tuy nhiên, việc cung cấp báo biếu lại rất có tác dụng khi bài báo đăng trong những tạp chí có lượng phát hành hạn chế, nằm trong chuyên ngành rất sâu hay khi yêu cầu đến từ những nước mà ở đó các thư viện vì lý do kinh tế chỉ nhận được rất ít các tạp chí. Chúng tôi thấy cần tạo điều kiện thuân lợi cho những yêu cầu đến từ những nước như vậy, mà khi đó việc gửi báo biếu trở thành một phương tiện thông tin rất quan trọng thậm chí là duy nhất.

Thực hiện trong thực tế

Nên thực hiện danh sách các tác giả ngay từ khi bắt đầu công trình. Điều này giúp cho việc xác định trách nhiệm, nhiệm vụ và sự tham gia cụ thể của từng người. Khi bản thảo được viết, mỗi tác giả phải đọc, nhận xét, sửa chữa và chấp nhận chính thức có đứng tên trong danh sách tác giả hay không, nghĩa là chấp nhận toàn bộ nội dung bài báo hay không.

Đứng trước tên họ của tác giả là tên riêng viết tắt chữ cái đầu hay cả tên riêng ở một số tạp chí. Cần kiểm tra kỹ lưỡng danh sách và chính tả tên tác giả. Địa chỉ của tất cả các tác giả được liệt kê, cùng với địa chỉ của viện nghiên cứu, khoa hay phòng thí nghiệm nơi công trình được thực hiện. Cần chỉ rõ địa chỉ của tác giả là người chấp nhận gửi báo biếu hoặc chỉ rõ là không cung cấp báo biếu. Cần đọc lại lần cuối lời khuyên với tác giả của các tạp chí để đảm bảo chắc chắn rằng tất cả phù hợp với quy định và yêu cầu tất cả các tác giả ký tên vào cuối thư gửi đăng cùng với những chú ý của tạp chí nếu có.

Bài viết cùng chuyên mục

Các dạng bài viết và bài báo trong y học

Cấu trúc một bài báo nghiên cứu là sự lặp lại một cách máy móc vì nó là kết quả của logic khoa học. Phần Đặt vấn đề phải nói rõ tại sao công trình được thực hiện.

Tư liệu và phương pháp nghiên cứu y học

Đặc điểm lâm sàng của nhóm nghiên cứu đặt trước các xét nghiệm điện quang hay sinh học, các yếu tố đánh giá kết quả sớm trước các yếu tố lâu dài.

Đặt vấn đề trong nghiên cứu y học

Như vậy, tất cả những độc giả khi đọc phần đặt vấn đề phải hiểu tại sao công trình được thực hiện và mục đích của nó là gì và họ phải muốn đọc tiếp phần tiếp sau của bài báo.

Văn phong một bài báo khoa học y học

Tính logic khoa học đòi hỏi sử dụng thì quá khứ cho tất cả những hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ và chỉ sử dụng thì hiện tại trong những trường hợp được xác định.

Kết quả nghiên cứu y học

Chương Kết quả nghiên cứu không được có bất kỳ một sự bình luận, giải thích nào, cũng không có bất kỳ sự so sánh nào với các công trình khác.

Phương pháp viết báo khoa học y học

Mục đích đặc trưng của việc viết báo y học là truyền đạt một thông điệp khoa học mà thể thức thường gặp là bài báo đăng kết quả nghiên cứu hay là Bản báo cáo nghiên cứu.

Đầu đề bài báo y học

Nên tham khảo một vài số của một tạp chí để quen với cách sử dụng đầu đề của tạp chí đó. Cũng nên tham khảo phần lời khuyên cho các tác giả trong đó đôi khi giới hạn số lượng từ hay phong cách của đầu đề.