- Trang chủ
- Sách y học
- Gây mê hồi sức
- Vô khuẩn khử khuẩn trong gây mê hồi sức
Vô khuẩn khử khuẩn trong gây mê hồi sức
Thông thường vô khuẩn được đánh giá bởi người sử dụng và người ta thường hiểu là hoàn toàn không có vi khuẩn, khi phương tiện vật liệu đó đã được khử khuẩn.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Giữa thế kỷ XIX mặc dù trên thế giới đã tiến hành được các phẫu thuật phức tạp nhưng tỷ lệ tử vong trong phẫu thuật vẫn còn cao, nhiều loại phẫu thuật như gãy xương hở, cắt bỏ vú, mổ bướu cổ tỷ lệ tử vong tới 50%. Cho đến khi Pasteur tìm ra vi khuẩn người ta mới biết chính vi khuẩn là một tác nhân gây tỷ lệ tử vong cao trong phẫu thuật.
Năm 1890, hội nghị quốc tế Ngoại khoa lần thứ 17 tại Berlin đã quy định nguyên tắc vô khuẩn trong phẫu thuật. Năm 1893 Mikulicz lần đầu tiên sử dụng găng cao su trong phẫu thuật đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong.
Những vi sinh vật gây bệnh bình thường không có mặt trong tổ chức của cơ thể, nó chỉ hiện diện và gây bệnh khi xâm nhập được vào trong cơ thể. Vì vậy mỗi một thủ thuật ngoại khoa từ những công việc nhỏ như thay băng vết mổ đến các phẫu thuật phức tạp đều đòi hỏi phải vô khuẩn. Muốn có được vô khuẩn phải khử khuẩn tất cả các vật liệu, dụng cụ và phương tiện trước khi đem sử dụng.
Vô khuẩn: Là cách bảo vệ các dụng cụ đã khử khuẩn cũng như các vết mổ sạch không bị nhiễm khuẩn. Tình trạng vô khuẩn chỉ đạt được sau khi người ta đã áp dụng các phương pháp khử khuẩn vật lý và hoá học.
Khử khuẩn: Là sử dụng các phương pháp vật lý hoặc hoá học để giết chết bất kỳ một loại vi sinh vật nào ở trong một phạm vi môi trường, cũng như những vật liệu phương tiện, dụng cụ để sử dụng trong phẫu thuật, trong khu mổ mà tự nó không thể vô khuẩn được.
Thông thường vô khuẩn được đánh giá bởi người sử dụng và người ta thường hiểu là hoàn toàn không có vi khuẩn, khi phương tiện vật liệu đó đã được khử khuẩn. Khái niệm đó thật sự không hoàn toàn đúng. Cần phải hiểu rằng quá trình khử khuẩn vi sinh vật bị giết chết theo qui luật toán học. Khi khử khuẩn có một tỉ lệ phần trăm trong quần thể vi sinh vật bị giết chết trong một đơn vị thời gian. Có nghĩa là có một tỉ lệ phần trăm số lượng vi khuẩn sẽ chết và một tỉ lệ phần trăm sẽ còn sống sót trong một thời gian nhất định sau lần tiếp xúc ban đầu với các phương tiện áp dụng khử khuẩn.
Ngày nay để đánh giá một vật liệu, dụng cụ được xem là vô khuẩn người ta dựa vào trị số MSI (Microbiological Safety survival Index). MSI được phát triển ở Canada để đo lường chất lượng đối với sản phẩm được xem là vô khuẩn sau khử khuẩn. Dựa vào trị số MSI người ta chấp nhận trong một triệu sản phẩm được khử khuẩn thì có 99,9999% có khả năng được vô khuẩn. Trị số MSI càng gia tăng càng đảm bảo được vô khuẩn. Như vậy sự vô khuẩn tuyệt đối không thể đạt được vì quá trình khử khuẩn không thể diệt hết hoàn toàn vi khuẩn và vẫn còn một tỉ lệ rất bé sống sót, tuy nhiên số lượng vi khuẫn này không đủ khả năng để gây nhiễm khuẩn.
Các phương pháp khử khuẩn
Những vi khuẩn có nha bào đề kháng mạnh nhất do nó có khả năng chịu đựng những tác nhân phá hủy nó từ bên ngoài. Do đó việc chọn lựa một phương pháp khử khuẩn để đạt được vô khuẩn tùy thuộc chủ yếu vào bản chất của vật phẩm cần khử khuẩn. Thời gian cần thiết để giết chết các nha bào của vi khuẩn, mỗi phương tiện, thiết bị đều được tiêu chuẩn hóa. Cũng như mỗi phương pháp khử khuẩn đều có những thuận lợi và bất lợi của nó.
Các phương pháp khử khuẩn bao gồm 2 phương pháp chính như sau:
Khử khuẩn bằng phương pháp vật lý.
Khử khuẩn bằng phương pháp hóa học.
Các phương pháp vật lý
Khử khuẩn bằng hơi nóng (nhiệt ẩm)
Nguyên lý:
Nhiệt ẩm ở dưới dạng hơi nóng được bão hòa dưới áp lực là một tác nhân vật lý để tiêu diệt tất cả các dạng sống của vi sinh vật kể cả loại có nha bào. Nhiệt tạo ra hơi nóng phá hủy vi sinh vật nhưng quá trình này nhờ cộng thêm hơi ẩm vì nếu chỉ có hơi nóng tự nó không đủ để diệt khuẩn. Hơi nóng và nhiệt ẩm có được nhờ gia tăng nhiệt độ của nước. Người ta tạo ra một áp lực lớn hơn áp lực khí quyển để gia tăng nhiệt độ của nước nhằm tạo ra nhiệt nóng cao để phá hủy sức sống của vi sinh vật đồng thời với hơi nóng kết hợp với độ ẩm sẽ làm biến dạng chất protein bên trong tế bào.
Hơi nóng được bão hòa khi hơi nóng chứa một số lượng tối đa của nước bốc hơi. Tiếp xúc trực tiếp với hơi nóng bão hòa là bản chất chính của quá trình khử khuẩn bằng nhiệt ẩm. Khi hơi nóng đi vào buồng chứa để khử khuẩn dưới áp lực nó ngưng tụ lại khi tiếp xúc với vật liệu đem hấp. Sự ngưng tụ này sẽ phóng ra nhiệt, vừa sinh nhiệt vừa làm ướt vì thế nó cung cấp được nhiệt và ẩm.
Quá trình khử khuẩn theo phương pháp này được đề cập đến các thuật ngữ về độ của nhiệt và thời gian tiếp xúc mà không đề cập số cân của áp suất vì áp suất gia tăng độ sôi của nước nhưng nó không có tác dụng tiêu diệt vi sinh vật. Với phương pháp này hầu hết các vi sinh vật bình thường đều bị giết trong vài phút ở nhiệt độ 54-55 0C, một số vi sinh vật có nha bào sẽ chịu đựng nhiệt độ ở 115 0C trong hơn 3 giờ. Tuy nhiên cũng không có loại vi khuẩn nào có thể sống sót ở nhiệt độ 121 0C trong 15 phút tiếp xúc. Do đó nếu gia tăng được nhiệt độ thì thời gian tiếp xúc sẽ được giảm lại.
Mối liên hệ giữa nhiệt độ và thời gian tiếp xúc tối thiểu phải được duy trì trong suốt quá trình khử khuẩn để hoàn thành biện pháp khử khuẩn có hiệu quả. Thời gian tiếp xúc và nhiệt độ đạt được bên trong vật liệu và dụng cụ đem khử khuẩn tùy thuộc vào kích cỡ và loại vật liệu, dụng cụ chứa trong hộp (thùng) đem hấp.
Cách vận hành:
Cho dụng cụ, vật liệu đem hấp vào nồi hấp, chú ý không nén chặt vì sẽ cản trở sự đi qua của hơi. Đậy nắp thật chặt rồi đun nóng, lúc này chưa đóng van, khi nước sôi hơi nóng đẩy khí trời ra hết thì đóng van lại trong nồi chỉ còn hơi nước.
Khi đồng hồ áp suất chỉ 3 atmosphère thì giữ nguyên áp lực đó trong vòng 45 phút đến 1 giờ. Khi đã đủ thời gian thì cắt nguồn năng lượng, chờ đến lúc đồng hồ áp suất chỉ còn số 0, mở van cho hơi nước thoát ra và các đồ hấp sẽ khô. Ngoài ra có thể làm khô dụng cụ bằng máy làm khô chân không (không khí đã được lọc sạch).
Thời gian để làm khô dụng cụ khoảng 15-20phút.
Các trị số áp lực tương đương nhiệt độ khi hấp bằng phương pháp này là: 1 atmosphère tương đương 120 0C. 2 atmosphère tương đương 134 0C. 3 atmosphère tương đương 143 0C. Để đánh giá nhiệt độ đạt được bên trong nồi hấp, người ta áp dụng các biện pháp sau:
Thử nhiệt độ bằng sự nóng chảy của một số chất: Lưu huỳnh nóng chảy ở nhiệt độ 120 0C. Antipirin nóng chảy ở nhiệt độ 114 0C. Acide salycilic nóng chảy ở nhiệt độ 157 0C.
- Thử nhiệt độ bằng sự đổi màu: Hỗn hợp carbonate chì 1g, Lithium sulfua 0,5g trở nên đen ở nhiệt độ 100 0C. Hỗn hợp carbonate chì 1g, Carbonate lithium 0,3g, lưu huỳnh 0,1g trở nên xám ở nhiệt độ 100 0C/30 phút, 110 0C/3-4 phút và 120 0C/30 giây.
Dùng các băng chỉ thị màu dán ở hộp dụng cụ hấp.
Ngoài ra người ta dùng ống nghiệm có đựng loại vi khuẩn chịu nhiệt cao như subtilis hoặc các dải bào tử sinh vật. Các ống đựng các vi sinh vật này được đặt vào trong nồi hấp, sau khi hấp xong đem nuôi cấy ngay để xem vi khuẩn có bị chết hay không. Đây là phương pháp chính xác nhất nhưng phức tạp, mất nhiều thời gian nên chỉ được áp dụng để kiểm tra định kỳ hiệu quả tiệt khuẩn của nồi hấp.
Những thuận lợi và bất lợi của phương pháp này là:
Thuận lợi: Đây là phương pháp dễ thực hiện, an toàn ít làm hư hỏng vật liệu hấp. Quá trình hấp nhanh, vòng thời gian ngắn. Về mặt kinh tế giá rẻ và dễ trang bị.
Bất lợi: Phải đóng gói đồ hấp kỹ, hấp nhiều dễ tạo ra quá tải làm nhiệt độ không đạt được nhiệt độ tiêu chuẩn, dễ làm ướt vật liệu hấp nếu vận hành không đúng quy cách. Dụng cụ hấp phải làm sạch, nếu có dầu, chất béo làm giảm hấp thu nhiệt. Hơi nóng tiếp xúc trực tiếp với dụng cụ hấp lại nhiều lần sẽ làm mau hỏng.
Khử khuẩn bằng nhiệt nóng (sấy khô)
Nguồn năng lượng đốt bằng than hay bằng điện, nhiệt độ trong buồng sấy sẽ tăng dần lên đạt được 1800C. Thời gian hấp từ 15-45 phút. Ở nhiệt độ này các phân tử hữu cơ bị phân hủy thành carbon do đó vô khuẩn được tuyệt đối. Nhưng nhược điểm dụng cụ mau hỏng, đồ nhựa, cao su, vải sẽ bị cháy nên không áp dụng được.
Khử khuẩn bằng phương pháp đun sôi
Các loại nấm, vi khuẩn chịu nhiệt và đặc biệt là các loại virut và nha bào vi khuẩn có thể sống ở nước sôi 100 0C trong vài giờ. Do đó không nên khử khuẩn bằng đun sôi đơn thuần ở áp suất của khí quyển. Tuy nhiên trong những hoàn cảnh khó khăn có thể khử khuẩn dụng cụ bằng đun sôi ở nhiệt độ 100 0C/30 phút, nếu cứ 1 lít nước cho thêm 10gam natri chlorua, natri bicarbonate hay natri borate thì cũng có thể nâng nhiệt độ đạt được 105 0C.
Khử khuẩn bằng tia cực tím
Tia phóng ra từ một đèn thủy ngân có bước sóng dài dễ hấp thu các chất hữu cơ ngay cả với dụng cụ trong suốt. Tác dụng diệt khuẩn khi ở gần tia và dụng cụ sạch. Vì vậy chỉ áp dụng trong phạm vi nhỏ. Nhược điểm của phương pháp này là không tác dụng khi phòng bị ô nhiễm và các vật có cản quang đều không hấp thu tia cực tím.
Khử khuẩn bằng siêu âm
Siêu âm tác dụng với tần số cao trên các dịch các khí và không khí gần. Trong môi trường lỏng, siêu âm tạo nên những gốc hóa học tự do H+ là gốc có tác dụng oxy khử mạnh, OH- là gốc có tác dụng oxy hóa mạnh và nó có thể trùng hợp tạo nên như nước oxy già. Do vậy trên môi trường lỏng, siêu âm có tác dụng vừa oxy hóa và khử mạnh chính đó là tác dụng sát khuẩn. Hiện nay người ta ứng dụng siêu âm có tần số 50.000Hz để lau chùi các dụng cụ kim loại trước khi đem khử khuẩn bằng các phương tiện khác.
Khử khuẩn bằng phóng xạ
Dùng tia phóng xạ (tia X hoặc đồng vị phóng xạ phát tia để khử khuẩn). Tác dụng chính là do các tia phóng xạ tách các electron, biến các vật thể thành ion âm và dương. Áp dụng phương pháp này cho thấy: mỗi loại vi khuẩn nhạy cảm mỗi tia khác nhau. Trên mỗi môi trường tia lại tác dụng khác nhau. Độ nhạy cảm với tia cũng khác nhau tùy theo loại vi khuẩn, nấm hay virus.
Khử khuẩn bằng phương pháp hóa học
Tiêu chuẩn của hoá chất khử khuẩn
Một hóa chất lý tưởng sát khuẩn phải đạt được tiêu chuẩn sau: Có tác dụng diệt khuẩn trong một thời gian dài và không làm thương tổn tổ chức sống. Dễ sử dụng và dễ tẩy sạch sau khi sát khuẩn. Đảm bảo hoặc không làm hư hỏng dụng cụ. Trên thực tế không có một hoá chất nào hoàn hảo, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn trên. Vì thế sử dụng các hoá chất thích hợp cho mỗi mục đích khác nhau.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tác dụng của một hóa chất dùng để khử khuẩn
Yếu tố thời gian: Mỗi chất đòi hỏi một thời gian tác dụng khác nhau. Ví dụ nước javel tác dụng nhanh hơn hexylresorcine.
Yếu tố pH: Có ảnh hưởng đến tác dụng mạnh hay yếu của hoá chất đó.
Yếu tố nhiệt độ: Tác dụng sát khuẩn tăng nếu nhiệt độ tăng. Tuy nhiên chỉ ở một mức độ hạn định và nếu tăng cao nhiệt độ sẽ làm thương tổn tổ chức.
Yếu tố môi trường: Môi trường bẩn thuốc sẽ giảm tác dụng.
Đậm độ thuốc, dung dịch: Đậm độ cao thuốc tác dụng mạnh, đây cũng là một yếu tố quan trọng. Theo Béan thuốc sẽ giảm tác dụng hơn 1000 lần khi đậm độ giảm xuống một nửa.
Các loại hóa chất dùng để khử khuẩn
Khí ethylene oxyde (EO)
EO có khả năng giết chết tất cả các loại vi sinh vật kể cả nha bào khi tiếp xúc trực tiếp trong một thời gian nhất định. Cơ chế chính là ức chế chuyển hóa bình thường của protein và quá trình tái sinh protein. Muốn có tác dụng diệt khuẩn, vật liệu cần diệt khuẩn phải tiếp xúc trực tiếp với khí EO. Trong thực hành, vì khí EO đơn thuần sẽ gây cháy và nổ cho nên người ta phải trung hòa với một khí khác như hydro carbone hay CO2. Khử khuẩn bằng khí này tùy thuộc vào nồng độ, nhiệt độ, độ ẩm và thời gian tiếp xúc với khí. Khí chứa trong một bình kim loại hỗn hợp gồm 10-12% EO. Nồng độ EO để khử khuẩn là: Cứ một lít trong buồng khử khuẩn chứa khoảng 450-800mg khí EO.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng diệt khuẩn của khí EO là nhiệt độ và thời gian tiếp xúc. Khi tăng nhiệt độ thì thời gian tiếp xúc có thể giảm. Tuy nhiên nếu vật liệu cần khử khuẩn mà làm bằng plastique hay cao su thì chỉ chịu nhiệt độ tối đa là 600C, vì vậy người ta sử dụng khí EO ở nhiệt độ bình thường của môi trường và để thời gian tiếp xúc lâu hơn mới tác dụng diệt các loại vi khuẩn có nha bào. Thời gian khử khuẩn trung bình EO từ 3-6giờ.
Những thuận lợi và bất lợi
Thuận lợi: Là một phương pháp khử khuẩn để thay thế phương pháp khử khuẩn bằng nhiệt độ cho một số vật liệu, dụng cụ mà không thể áp dụng bằng phương pháp này. Duy trì thời gian vô trùng lâu hơn.
Bất lợi: Thời gian khử khuẩn lâu hơn phương pháp bằng nhiệt độ. Khí đắt tiền, trang thiết bị đặc biệt. Dễ nhiễm độc nhất là một số vật liệu dễ hấp thụ khí EO như cao su, silium. EO có thể gây bỏng.
Khử khuẩn bằng chất hoạt chất glutaraldéhyde
Ngoài khí EO người ta có thể dùng hoạt chất glutaraldehyde để khử khuẩn, diệt khuẩn những vật liệu dụng cụ có nhạy cảm với nhiệt độ. Cách thức áp dụng tương tự như như khử khuẩn bằng khí EO. Tuy nhiên thời gian tiếp xúc trực tiếp đòi hỏi phải ≥ 6giờ.
Thuận lợi: Dung dịch của hoạt chất glutaraldehyde có sức căng bề mặt thấp nên dễ thấm, dễ xâm nhập và gia tăng nồng độ bên trong vật liệu được khử khuẩn. An toàn, không gây kích thích. Không làm hư hỏng dụng cụ. Cao su, plastic không bị hấp thụ. Glutaraldehyde có hiệu quả diệt khuẩn ở nhiệt độ bình thường.
Bất lợi: Dung dịch phải được hoạt hóa bằng pha trộn vào các dung dịch đệm. Nếu dùng dung dịch kiềm glutaraldehyde dễ thay đổi theo pH và sẽ mất tác dụng sau một ngày hoạt hóa. Có mùi đặc biệt và có độc tính nên cũng ảnh hưởng đến người sử dụng.
Khử khuẩn bằng các loại cồn
Cồn Ethylic: Sau vài giây tiếp xúc có tác dụng diệt các vi khuẩn không có nha bào, ức chế hoạt động của virus.
Cồn propylic: Diệt khuẩn mạnh nhưng nhược điểm là kích thích mạnh.
Khử khuẩn bằng formol
Formol là một thuốc khử khuẩn mạnh nhưng khá độc. Trong thực hành được dùng dưới hai dạng: dung dịch 4% formaldehyl và dạng polyme hóa thành viên trioxymethylène. Formol 4% thường được dùng để khử khuẩn phòng mổ, ngoài ra còn được dùng để khử khuẩn máy thở.
Trioxymethylene thường được dùng khử khuẩn các dụng cụ không hấp được như một số máy móc phẫu thuật, đồ nhựa, ống nội khí quản...
Các chất khử khuẩn khác
Hypochlorite: Là những muối natri có nồng khác nhau, hypochlorite được trình bày dưới nhiều dạng khác nhau như dung dịch javel, dakin.
Các dung dịch cồn iode: Dung dịch 5% sát khuẩn mạnh nhưng kích thích da.
Nước oxy già 3%: Có tác dụng sát khuẩn, làm sạch vết thương bẩn.
Acide péacetic dung dịch 2%.
Các amonium hóa trị 3, phenol và các dẫn chất.
Các kim loại nặng như thủy ngân.
Nhiễm khuẩn vết mổ và các biện pháp phòng ngừa
Nhiễm khuẩn vết mổ
Định nghĩa
Một vết mổ được xem là nhiễm khuẩn khi có mủ được phát hiện từ vết mổ đó. Định nghĩa này không đề cập đến vấn đề có hay không có vi sinh vật được phân lập từ vết thương, mặc dù đây là yếu tố giúp quyết định liệu pháp điều trị. Trong thực tế lâm sàng có từ 25-50% trường hợp vết thương nhiễm khuẩn nhưng không phân lập được vi sinh vật, ngược lại người ta vẫn có thể phát hiện được vi khuẩn từ các vết thương đã lành tốt. Vì vậy để chẩn đoán một vết thương có nhiễm khuẩn hay không nên dựa vào các triệu chứng lâm sàng và nhất là có sự hiện diện của mủ tại vết thương.
Phân loại vết mổ
Dựa vào đặc điểm của vết mổ người ta chia làm 4 loại như sau:
Phẫu thuật sạch (clean operation): Là những phẫu thuật ở những cơ quan sạch dưới các điều kiện vô khuẩn (ngoại trừ can thiệp vào đường hô hấp, tiêu hoá, tiết niệu và sinh dục). Vết thương sạch, gọn khâu kín da thì đầu và không dẫn lưu.
Phẫu thuật sạch có thể bị ô nhiễm (clean-contaminated operation): Là những vùng mổ sạch nhưng có can thiệp vào các cơ quan có vi khuẩn ký sinh nhưng chưa gây bệnh hoặc vết thương có dẫn lưu.
Phẫu thuật bị nhiễm bẩn (contaminated operation): Là các vết mổ, vết thương lúc đầu sạch nhưng trong quá trình phẫu thuật tiếp xúc với các tạng rỗng có vi khuẩn ký sinh hoặc làm chảy nhiều dịch ra ngoài từ các tạng này hoặc có những sai sót lớn về kỹ thuật vô khuẩn khi mổ.
Phẫu thuật bẩn (dirty operation): Là các vết thương, chấn thương cũ và có biểu hiện nhiễm trùng tại vùng mổ, vết mổ ngay trước khi phẫu thuật.
Các yếu tố nguy cơ
Cơ quan phẫu thuật
Mổ xương thường nhiễm tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh. Mổ phổi có phế cầu, trực khuẩn lao. Mổ tiêu hoá, tiết niệu có các trực khuẩn đường ruột.
Cơ địa bệnh nhân
Bệnh nhân lớn tuổi. Béo phì. Có nhiễm khuẩn trước mổ, ngay cả với những vị trí ở xa vùng phẫu thuật. Đang điều trị corticoid hoặc các thuốc ức chế miễn dịch. Đái tháo đường. Suy dinh dưỡng.
Các yếu tố tại chỗ
Các vết mổ dập nát, tổn thương mô, chảy máu nhiều trong mổ. Vết mổ có dị vật. Cung cấp máu tại chỗ kém. Vết mổ có vị trí gần vùng bẹn, hậu môn. Vết mổ dài, có tụ máu, dịch hoặc tạo khoang ảo dưới da. Vết mổ có dẫn lưu
Tính chất cuộc mổ
Phẫu thuật cấp cứu. Phẫu thuật bẩn hoặc phẫu thuật bị ô nhiễm. Phẫu thuật lớn, thời gian mổ kéo dài.
Phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ
Yêu cầu đối với khu mổ
Khu vực mổ phải được xây dựng xa các nơi bị nhiễm khuẩn như khoa lây, nhà xác, khu vệ sinh...
Có phòng mổ vô khuẩn và hữu khuẩn riêng biệt.
Có hệ thống cửa và lối đi một chiều.
Có hệ thống lọc và điều hoà không khí, đảm bảo nhiệt độ trong khu mổ là 24 – 28 0C và độ ẩm là 50%.
Tường và nền nhà phải nhẵn và không thấm nước.
Đảm bảo quy chế vệ sinh, khử khuẩn hàng ngày.
Có buồng tắm và phòng thay quần áo cho nhân viên khu mổ.
Dụng cụ trong phòng mổ chỉ để tối thiểu và sắp xếp gọn gàng, dễ lau chùi.
Hạn chế số người vào phòng mổ, có hệ thống cửa kính hoặc vô tuyến truyền hình phục vụ người cần xem mổ.
Yêu cầu đối với nhân viên phòng mổ
Trước khi vào phòng mổ phải thay áo quần, đội mũ, đeo khẩu trang và mang bốt hay dép riêng theo quy định của khu mổ.
Không được đi lại, nói chuyện nhiều trong phòng mổ.
Những người đang bị bệnh lây nhiễm thì không được vào phòng mổ.
Những người vào nhà xác thì không được vào phòng mổ trong vòng 24 giờ.
Không đựơc đưa cáng, xe vận chuyển bệnn nhân từ trong khu mổ ra ngoài và ngược lại.
Nhân viên phòng mổ đã thay áo quần vô trùng thì không được ra ngoài khu mổ, nếu cần thiết thì ra vào phải thay lại như ban đầu.
Phẫu thuật viên và dụng cụ viên phải rửa tay, mặc áo, đi găng đúng quy cách.Trong khi mổ phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc vô khuẩn, có ý thức và làm đúng các thì mổ sạch và mổ bẩn.
Yêu cầu đối với bệnh nhân
Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ:
Đối với các trường hợp mổ chương trình:
Điều trị ổn định tất cả các nhiễm trùng hiện có.
Cung cấp dinh dưỡng để nâng cao thể trạng nếu có suy dinh dưỡng.
Kiểm soát tốt đường máu ở bệnh nhân đái tháo đường.
Tắm rửa sạch bằng xà phòng sát khuẩn tối hôm trước mổ.
Chỉ cạo lông nếu lông quá nhiều có ảnh hưởng đến vết mổ.
Đối với các trường hợp mổ cấp cứu do không có đủ thời gian cho phép nhưng cũng cần chuẩn bị tốt nhất có thể được. Cần vệ sinh vùng mổ sạch, đặc biệt là các vết thương hở phải được rửa sạch bằng nước và xà phòng.
Sát khuẩn da
Thuốc sát khuẩn lý tưởng là thuốc sát khuẩn được cả da và ở lỗ chân lông, phải tác dụng sát khuẩn được với tất cả các loại vi khuẩn. Ngoài ra thuốc không gây kích thích da, không gây dị ứng và không bị phá huỷ bởi rượu, xà phòng và các chất hữu cơ khác. Thực tế hiện nay không có hợp chất sát khuẩn nào đáp ứng tất cả các yêu cầu trên.
Một số thuốc sát trùng đã và đang sử dụng trên lâm sàng:
Cồn ethanol: Có tác dụng diệt vi khuẩn, nấm và có thể diệt được virus. Thuốc tác dụng nhanh nếu ở nồng độ cao.
Cồn iode: Có tác dụng diệt vi khuẩn, nấm và cả virus. Thuốc có thể gây kích thích da và có thể giảm tác dụng nếu vết thương có nhiều máu, huyết thanh.
Tím gentian: Chỉ có tác dụng kìm khuẩn và có thể làm chậm liền vết thương.
Đỏ eosin: Có tác dụng kìm khuẩn, nấm và không gây chậm liền vết thương.
Cách sát khuẩn:
Đối với những vết thương bẩn thì trước khi sát khuẩn cần rửa sạch vùng mổ bằng nước và xà phòng.
Dùng dung dịch sát khuẩn để sát khuẩn vết mổ, bắt đầu từ trung tâm sau đó di chuyển dần ra ngoài theo đường xoắn ốc.
Vùng sát khuẩn phải đủ rộng để trong quá trình phẫu thuật tay phẫu thuật viên không bị tiếp xúc với vùng da chưa sát khuẩn. Dung dịch sát khuẩn nên để ướt trên da trong thời gian ít nhất là 2 phút.
Trải săng
Bệnh nhân phải được che phủ với săng vô khuẩn, chỉ để trống vùng mổ và những vùng cần cho hoạt động của người gây mê. Săng mổ phải trải sao cho đảm bảo phẫu trường rộng rãi, thuận lợi cho hoạt động phẫu thuật nhưng cũng phải giới hạn tối đa sự ô nhiễm. Bàn để dụng cụ phải được trải 1 tấm ni lông vô khuẩn ở dưới và trải khăn vô khuẩn lên trên.
Băng vết mổ
Sau khi mổ xong phải lau sạch vết mổ, sát khuẩn lại vết mổ và băng kín bằng băng vô khuẩn. Khi thay băng vết mổ cũng cần tuân thủ quy trình vô khuẩn.
Bài viết cùng chuyên mục
Truyền máu trong gây mê hồi sức
Máu không những cung cấp huyết cầu tố để vận chuyển oxy mà còn mang theo các yếu tố đông máu rất cần để hàn gắn các vết thương đang chảy máu.
Kỹ thuật gây tê đám rối thần kinh cánh tay
Năm 1885 Halstead là người lần đầu tiên thực hiện bơm thuốc tê trực tiếp vào đám rối thần kinh cánh tay trong trường hợp đám rối thần kinh cánh tay đã được bộc lộ.
Kỹ thuật gây tê tủy sống
Dây chằng vàng, dây chằng này thường cứng, kéo dài từ vùng cổ đến cột sống thắt lưng, Khi chọc vào tạo sức cản mạnh và đó là dấu hiệu nhận biết khi chọc qua nó.
Rối loạn thăng bằng nước điện giải trong gây mê hồi sức
Chất hữu cơ phân tử nhỏ Urê, amino acide, glucose, những chất này có thể khuếch tán qua lại màng tế bào dễ dàng nên ít có vai trò trong điều hoà và vận chuyển nước.
Gây tê ngoài màng cứng
Giữa 2 đốt sống kề nhau tạo thành khe liên đốt, khe này rộng hay hẹp là tuỳ theo từng đoạn, Mỏm gai gần như nằm ngang ở đoạn thắt lưng nên thuận lợi.
Tai biến và nhiễm độc thuốc tê
Nhiễm độc thuốc tê tác động ở mức thần kinh trung ương và ở tim, Thông thường biểu hiện nhiễm độc thần kinh, nhiễm độc tim hay gặp với các thuốc tê mạnh.
Kỹ thuật gây tê tĩnh mạch
Khi tiêm thuốc tê vào tĩnh mạch để gây tê tĩnh mạch, thuốc tê sẽ tập trung ở vùng phía dưới ga-rô, thuốc tê nằm trước tiên ở các tĩnh mạch lớn ở nông.
Rối loạn thăng bằng toan kiềm trong gây mê hồi sức
Chất đệm là chất có khả năng lấy đi ion H hoặc ion OH khi các ion này xuất hiện trong dung dịch và làm cho pH của dung dịch chỉ thay đổi rất ít.
Gây tê qua khe xương cùng
Điều quan trọng là xác định được khe cùng cụt,Bệnh nhân nằm nghiêng, cong lưng và gấp chân hay được áp dụng vì bệnh nhân dễ chịu và dễ thực hiện kỹ thuật.
Chăm sóc bệnh nhân sau mổ
Trong trường hợp nặng bệnh nhân cần cho thở oxy từ phòng mổ đến hậu phẫu, có thể dùng loại tấm cuốn để chuyển bệnh nhân từ bàn mổ qua xe rất tiện lợi.
Kỹ thuật gây tê thần kinh ngoại biên
Vì lý do tác dụng độc với tim của bupivacain, nên tốt nhất là tránh dùng thuốc này, Tuy nhiên nó được chỉ định khi có chống chỉ định dùng adrenalin.
Tai biến và biến chứng gây mê
Ở trường hợp này huyết áp sẽ tăng cao liên tục cho đến khi xuất hiện mạch chậm rồi tụt huyết áp, chính là do thiếu oxy cơ tim cấp
Thăm khám bệnh nhân trước gây mê
Khi phẫu thuật đã có chỉ định thì quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân được đặt ra một cách nghiêm túc. Bằng sự giải thích, thầy thuốc phải tạo cho bệnh nhân một lòng tin.