Khái niệm cơ bản về bệnh ung thư

2013-03-16 02:51 PM

Ung thư là một bệnh được loài người nói đến rất sớm nhưng cho đến nay ung thư vẫn là một vấn đề thời sự bởi vì người ta cũng chưa biết một cách đầy đủ về nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bản chất của bệnh ung thư

Ung thư là một bệnh được loài người nói đến rất sớm nhưng cho đến nay ung thư vẫn là một vấn đề thời sự bởi vì người ta cũng chưa biết một cách đầy đủ về nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh cũng chưa biết định nghĩa chính xác thế nào là một bệnh ung thư. Tuy nhiên có một số nét cơ bản sau đây đã được biết một cách tương đối đầy đủ.

 Ung thư là gì:

Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào. Khi bị kích thích bởi các tác nhân sinh ung thư, tế bào tăng sinh một cách vô hạn độ, vô tổ chức, không tuân theo các cơ chế kiểm soát về phát triển của cơ thể.

Đa số người bệnh ung thư đều hình thành các khối u. U ác tính hoàn toàn khác với khối u lành tính.

U lành tính: chỉ phát triển tại chổ thường rất chậm, có vỏ bọc xung quanh nên ranh giới rõ, mật độ thường mềm hoặc chắc, không xâm lấn, không di căn, khi bóc đi sẽ khỏi bệnh.

U ác tính: thường phát triển nhanh, u thường không có ranh giới rõ, xâm lấn ra xung quanh và thường di căn xa theo đường bạch mạch và đường máu.

Đa số các bệnh ung thư thường có biểu hiện mạn tính, có quá trình phát sinh và phát triển lâu dài qua nhiều giai đoạn trừ một số nhỏ ung thư ở trẻ em tiến triển nhanh do đột biến gien từ lúc bào thai.

Theo UICC (Tổ chức chống ung thư quốc tế) thì tỷ lệ ung thư trẻ em là 1/600.

Theo thống kê ung thư Hà Nội (1988-1990) thì các ung thư sau đây thường gặp ở trẻ em:

Ung thư hạch bạch huyết: 35,5%.

Ung thư hệ thần kinh trung ương: 11%.

Ung thư xương, ung thư mô mềm: 11,4%.

U lymphô ác: 10%.

Ung thư hốc mắt: 8,5%.

Các ung thư người lớn đều qua giai đoạn tiềm tàng có khi hàng chục năm, đặc biệt là ung thư tuyến giáp, ung thư cổ tử cung, ung thư da...

Khi khối u lớn phát triển nhanh mới có các triệu chứng lâm sàng. Đau thường là triệu chứng của bệnh ung thư ở giai đoạn cuối.

Sự khác nhau của các loại ung thư

Ung thư có thể phát sinh và phát triển ở tất cả các cơ quan và bộ phận trên cơ thể. Có những ung thư xuất phát từ các tổ chức nông của cơ thể nên dễ phát hiện sớm ngược lại có những ung thư xuất phát ở các tổ chức sâu nên rất khó phát hiện.

Cho đến nay người ta đã biết được trên 200 loại ung thư khác nhau trên cơ thể. Các loại ung thư này có những điểm giống nhau về cơ bản nhưng cũng có những đặc điểm khác nhau.

Khác nhau về nguyên nhân

Về nguyên nhân gây ung thư, các tác giả chia ra làm 2 nhóm chính: tác nhân bên trong (chủ yếu do yếu tố di truyền và nội tiết) và tác nhân bên ngoài.

Qua các nghiên cứu dịch tể học của R. Doll và Petro 80% các nhân sinh ung thư là bắt nguồn từ môi trường sống (tác nhân bên ngoài) trong đó hai tác nhân chính là: 35% do chế độ ăn uống gây nhiều loại ung thư đường tiêu hóa và khoảng 30% ung thư do thuốc lá là nguyên nhân của 90% ung thư phổi và là thủ phạm chính gây ung thư đường hô hấp trên, ung thư vùng đầu cổ...

Một số tác nhân thường gặp khác:                                        

Tia phóng xạ: thường gây ung thư máu, ung thư tuyến giáp.

Tác nhân virút: cũng được nói đến nhiều trong các nguyên nhân gây ung thư. Có 4 loại virút được nhắc đến:

Virus Epstein-Barr: gây ung thư vòm họng, U lymphô ác tính.

Virus viêm gan B (HBV)  là tác nhân gây ung thư gan nguyên phát.

Virus gây u nhú (HPV) gây ung thư cổ tử cung, âm đạo, âm hộ, ung thư dương vật.

Virus gây bệnh bạch cầu dòng lympho T ở người (HTLV)

Khác nhau về tiến triển

Ung thư thường xuất phát từ hai loại tổ chức chính của cơ thể:

Ung thư biểu mô (carcinoma) chiếm hơn 90% các ung thư trong cơ thể.

Ung thư tổ chức liên kết (sarcoma).

Thực tế, từ thời Hypocrates đã mô tả 2 loại ung thư này. Loại sùi ra ngoài nhiều và xâm lấn ra xung quanh như càng cua là ung thư thuộc loại carcinoma và một loại phát triển vào sâu là sarcoma.

Ung thư thường tiến triển khác nhau trong từng loại, trong mỗi cá thể khác nhau xu hướng tiến triển cũng rất khác nhau:

Có loại ung thư tiến triển nhanh: ung thư máu, hạch, ung thư hắc tố, các ung thư liên kết...

Có nhiều loại ung thư tiến triển chậm: ung thư da tế bào đáy, ung thư giáp trạng, ung thư cổ tử cung...

Con đường di căn chủ yếu cũng khác nhau:

Ung thư biểu mô thường di căn sớm tới các hạch khu vực.

Ung thư liên kết (xương, phần mềm) thường di căn sớm theo đường máu tới các tạng ở xa  như gan, phổi, xương...

Thông thường ung thư càng ở giai đoạn muộn, càng hay có di căn ra hạch khu vực và di căn xa nhưng đôi khi có di căn rất sớm, thậm chí từ lúc chưa phát hiện thấy u nguyên phát.

Tốc độ phát triển của ung thư cũng tùy thuộc vào từng giai đoạn.

Giai đoạn sớm (insitu, giai đoạn I) ung thư tiến triển chậm.

Giai đoạn muộn (giai đoạn 3,4) ung thư tiến triển nhanh.

Ung thư ở người càng trẻ tiến triển càng nhanh.

Khác nhau về phương pháp điều trị

Trong y văn có nói đến một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 1/10.000) ung thư tự khỏi. Người ta cho rằng các cá thể này có hệ thống miễn dịch tự điều chỉnh, tiêu diệt được các tế bào ung thư.

Còn lại nếu ung thư không được điều trị thì chắc chắn bệnh nhân sẽ tử vong.

Càng điều trị ung thư ở giai đoạn sớm, bệnh nhân càng có nhiều cơ may khỏi ung thư.

Ở những giai đoạn muộn, việc điều trị nhằm kéo dài cuộc sống hoặc cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân ở giai đoạn cuối.

Cho đến nay, việc điều trị ung thư dựa vào 5 phương pháp chính:

Phẫu thuật.

Tia xạ.

Hóa chất.

Nội tiết.

Miễn dịch.

Tuy nhiên áp dụng phương pháp nào để điều trị có hiệu quả còn tuỳ thuộc vào giai đoạn, vào sức chịu đựng của cơ thể, vào khả năng của cơ sở điều trị và một phần vào kinh nghiệm của thầy thuốc chuyên khoa.

Khác nhau về tiên lượng bệnh

Tiên lượng ung thư phụ thuộc rất nhiều yếu tố trên từng bệnh nhân. Những yếu tố chính là:

Giai đoạn ung thư: càng sớm tiên lượng càng tốt và ngược lại.

Loại ung thư: ung thư ở bề mặt có tiên lượng tốt hơn vì dễ phát hiện, dễ điều trị.

Tính chất ác tính của tế bào ung thư: độ ác tính càng cao tiên lượng càng xấu.

Thể trạng của bệnh nhân ung thư: ở người già ung thư thường tiến triển chậm hơn nhưng do sức chịu đựng kém nên khó thực hiện được phác đồ điều trị một cách triệt để nên càng già yếu tiên lượng càng xấu.

Phòng ngừa được nhiều loại ung thư

Do biết được nguyên nhân gây ung thư chủ yếu do môi trường ngoài (80%) nên có thể chủ động phòng ngừa được bằng các biện pháp tích cực như:

Ngăn chặn các tác nhân tác động từ bên ngoài.

Ngừng hút thuốc lá.

Chế độ dinh dưỡng vệ sinh an toàn hợp lý.

Chống lạm dụng các hóa chất công nghiệp, ô nhiểm môi trường, phòng các bệnh nghề nghiệp.

Một số ung thư có liên quan đến virút, co thể phòng ngừa bằng tiêm vaccine đặc biệt là vaccine phòng viêm gan B.

Tích cực điều trị các tổn thương tiền ung thư.

Sàng lọc phát hiện sớm để điều trị ở giai đoạn sớm các ung thư như ung thư vú, cổ tử cung, khoang miệng, đại trực tràng.

Điều trị bệnh ung thư ở giai đoạn sớm

Do không nắm được bệnh lý của ung thư nên trong nhân dân trước đây và hiện nay đang có một số quan niệm sai lầm: bệnh ung thư là vô phương cứu chữa, không được dùng dao kéo để điều trị. Quan niệm này cũng bắt nguồn từ một thực tế khách quan là từ trước đến nay phần lớn bệnh nhân đến khám và điều trị ở giai đoạn muộn nên không có chỉ định phẫu thuật triệt để hoặc phẫu thuật sai kỹ thuật.

Trên thực tế ở các nước có nền y học tiên tiến, phần lớn bệnh nhân đến khám và điều trị ở các giai đoạn sớm nên 50% bệnh nhân được chữa khỏi bệnh.

Hy vọng trong tương lai không xa với sự hiểu biết của người dân được nâng cao, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật sẽ có 3/4 bệnh nhân ung thư được chữa khỏi.

Bài viết cùng chuyên mục

Thăm khám khối u

Một khối u dù là lành tính hay ác tính cũng cần phải được phát hiện sớm, phải được thăm khám tỷ mỷ để có được một chẩn đoán đúng, chính xác và có một phương pháp điều trị tốt nhất đối với các khối u.

Nguyên nhân ung thư

Nguồn tiếp xúc tia phóng xạ chủ yếu là tự nhiên từ các các tia vũ trụ, đất hoặc các vật liệu xây dựng. Nguồn tiếp xúc phóng xạ nhân tạo chủ yếu là trong chẩn đoán Y khoa.

Hóa trị ung thư

Thời gian nhân đôi của ung thư là thời gian cần cho một khối u tăng gấp đôi số lượng tế bào. Nghiên cứu invitro cho thấy thời gian này dao động từ 15giờ cho đến 72giờ.

Phòng chống ung thư

Sự nghi ngờ có mối liên hệ giữa hút thuốc lá và ung thư đã được đề cập đến từ 200 năm về trước. Báo cáo đầu tiên năm 1795 đã nêu ra mối liên hệ giữa thuốc lá và ung thư môi.

Điều trị tia xạ ung thư

Tổ chức ung thư là một tập hợp nhiều tế bào ung thư ở các giai đoạn phân chia khác nhau. Tia xạ làm cho tế bào ung thư bị chết, tổ chức ung thư teo nhỏ.

Phẫu thuật chẩn đoán điều trị và phòng ngừa ung thư

Nguyên lý cơ bản trong điều trị đa mô thức là dùng các ưu điểm của phương pháp điều trị này bổ khuyết cho nhược điểm của phương pháp điều trị kia và ngược lại.

Điều trị triệu chứng trong ung thư giai đoạn cuối

Khó thở thường chiếm 70 phần trăm các trường hợp bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Các nguyên nhân thường gặp là các bệnh ác tính ở phổi có thể gây.

Điều trị giảm đau trong ung thư

Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra khái niệm bậc thang giảm đau như là một cách khuyến khích việc sử dụng thích hợp các Opioide giảm đau ở các quốc gia ít sử dụng loại thuốc này.

Dich tễ học mô tả bệnh ung thư

Ung thư ở người gồm khoảng 200 loại bệnh, nguyên nhân của các ung thư cũng khác nhau và do đó mỗi quần thể có nguy cơ khác nhau đối với mỗi loại ung thư và phụ thuộc vào những đặc điểm địa lý, văn hóa và các thói quen của quần thể đó.

Cơ chế bệnh sinh và quá trình tiến triển tự nhiên của ung thư

Có sự thay đổi về nhân: Nhân tăng kích thước, đa dạng, nhiều thùy, đặc biệt có những nhân khổng lồ, phân chia mạnh gọi là nhân quái, nhân chia.

Các chất chỉ điểm khối u trong ung thư

Ngày nay, y học ngày càng có nhièu kỹ thuật và quy trình chẩn đoán, phát hiện sớm ung thư. Phất hiện các chất chỉ điểm khối u đã trở thành một phương pháp quan trọng được ứng dụng rông rãi trong việc sàng lọc phát hiện sớm.

Đại cương chẩn đoán bệnh ung thư

Chẩn đoán ban đầu là (những chẩn đoán sơ bộ, định hướng một ung thư) dựa trên các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng. Bước chẩn đoán ban đầu rất quan trọng.