Cỏ đuôi lươn

2015-06-26 09:33 AM

Cỏ đuôi lươn mọc hoang ở những vùng lầy, ẩm ướt ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảnh Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Nam Bộ cũng có mọc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Còn có tên là bồn bổn, điển thông.

Tên khoa học Philydrum lanuginosum Banks (Garciana cochinchinensis lour).

Thuộc họ Cỏ đuôi lươn Philydraceae.

Tên là cỏ đuôi lươn vì ngọn và cụm hoa giống đuôi con lươn. Tên điền thông được ghi trong Lĩnh nam thái dược lục (sách cổ).

Mô tả cây

Cỏ đuôi lươn

Cỏ đuôi lươn

Cỏ đuôi lươn là một loại cỏ mọc đứng, cao chừng 0,35-1,30m. Trên thân có rất nhiều lông ngắn màu trắng, trông như len, nhiều nhất là ở phía dưới cụm hoa. Lá hình gươm, dài 8-70 cm, rộng 4-10mm, phía trên có vạch dọc, phía dưới có lông; lá ở gốc phủ lên nhau, có khi 4-5 lá, dài và hẹp; lá trên thân nhỏ hơn, mọc so le. Cụm hoa mọc thành bông dài 2-5cm. Lá bấc tồn tại như lá nhung nhỏ có lông hoặc không có lông. Hoa mọc so le, không cuống. Đài 2, tràng 2, nhị 1, bầu 3 ngăn không rõ. Quả nang có lá bấc bao bọc, có lông mịn.

Phân bố, thu hái và chế biến

Cỏ đuôi lươn mọc hoang ở những vùng lầy, ẩm ướt ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảnh Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Nam Bộ cũng có mọc. Có mọc cả ở Trung Quốc, Ân Độ. Hái bộ phận trên mặt đất, phơi khô để dành mà dùng.

Thành phần hóa học

Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Công dụng và liều dùng

Nhân dân Việt Nam và Trung Quốc (Quảng Châu) đều dùng cây này làm thuốc.

Tại các cửa hàng bán lá Hà Nội, người ta bán để cho phụ nữ dùng trước và sau khi sinh nở (chưa bệnh hậu sản).

Tại Trung Quốc người ta dùng sát vào chỗ lờ loét, rửa chỗ sưng đau. Uống trong ngày dùng 10 - 15g dưới dạng thuốc sắc.

Bài viết cùng chuyên mục

Nhội

Cây nhội được trồng lấy bóng mát ở nhiều thành phố ở Việt Nam, nhiều nhất ở Hà Nội. Còn thấy mọc hoang trong rừng. Cũng thấy mọc ở Ân Độ, MaLaixia, InĐônêxia, Châu Đại Dương.

Đài hái

Cây đài hái là một cây rất đẹp. Hiện nay mọc hoang leo lên trên các cây to khác trong rừng, phía trên chia thành nhiều cành mọc sen kẽ nhau và phủ trên cây tựa những lá màu xanh thảm, trông rất đặc biệt.

Hương phụ (cỏ gấu)

Vào tháng 6, trên ngọn cây có 3 đến 8 cụm hoa hình tán màu xám nâu, hoa lưỡng tính, 3 nhị dài chừng 2mm, nhụy có đầu núm chia thành 2 nhánh như lông tơ.

Ích mẫu

Vể tên khoa học cùa cây trước đây căn cứ vào những tác giả trong và ngoài nước, vẫn xác định là Leonurus sibiricus L. Hiện nay theo sự điều tra đối chiếu mới.

Mít: cây thuốc lợi sữa an thần

Quả non luộc làm rau ăn, Hạt nướng hay luộc ăn ngon, thơm và bùi, gỗ quý, màu vàng, không mọt, dùng làm nhà, làm đồ đạc và tạc tượng.

Cây rau ngót

Lá rau ngót ngoài công dụng nấu canh, còn là một vị thuốc nhân dân dùng chữa sót nhau và chữa tưa lưỡi.

Ô rô

Mùa hạ và mùa thu, đang lúc hoa nở thì hái toàn cây, phơi khô mà dùng. Hái vào mùa thu người ta cho là tốt hơn.

Bọ mẩy

Thường hái toàn cây, bỏ rễ đem về phơi hay sấy khô mà dùng. Không phải chế biến gì, hoặc chỉ sao vàng cho thơm.

Ngải cứu

Hiện nay hoạt chất của ngải cứu chưa đựoc xác định, mặc dầu ngải cứu được dùng cả trong đông y và tây y. Chỉ mới biết trong ngải cứu có tinh dầu, ít tanin.

Bạch đồng nữ

Trong nhân dân, lá bạch đồng nữ hay mò trắng nói trên thường chỉ hay dùng ngoài; không kể liều lượng người ta hái lá tươi về vò nát hay giã nát lấy nước hoặc sắc lấy nước dùng tắm ghẻ.

Cây diếp cá

Một ý kiến khác cho rằng những dẫn xuất của đioxyflavonon, đều có tính chất của rutin nghĩa là tăng sức chịu đựng của vi ti huyết quản làm cho huyết quản khó đứt vỡ.

Cửu lý hương

Cây mọc hoang dại và được trồng ở một số vùng nước ta để làm thuốc, còn mọc ở nhiều nước ôn đới như Pháp, Ý, bắc châu Phi.

Cây hoa cứt lợn

Trên súc vật thí nghiệm thấy có tác dụng chống viêm, chống phù nề, chống dị ứng phù hợp với những kết quả thu được trên thực tế lâm sàng điều tri viêm mũi cấp và mãn.

Mướp

Cây mướp được trồng ở khắp nơi ở Việt Nam. Thường chỉ để lấy quả luộc hay xào nấu để ăn. Rất ít người dùng làm thuốc.

Cây hồng hoa

Nước sắc hồng hoa thí nghiệm trên tử cung cô lập và không cô lập của chuột, thỏ, mèo, chuột bạch và chó thấy có tác dụng kích thích lâu dài.

Cây tô mộc

Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta vì gỗ được dùng làm thuốc nhuộm gỗ và làm thuốc với tên tô mộc. Người ta dùng gỗ chẻ mỏng phơi khô.

Cây bông

Nhân dân ta và một số nước khác dùng làm thuốc điều kinh. Nó gây co bóp tử cung giống như sự co bóp tự nhiên khi đẻ. Liều dùng 3g đến 5g dưới dạng sắc.

Hạt bông

Hạt bông sao vàng 5g, cam thảo 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia ba lần uống trong ngày (đơn ghi trong Hoà hán dựơc ứng dụng phương). Xưa kia Nhật Bản có ra một số biệt dược lợi sữa.

Đương quy

Đương quy hiện nay ta vẫn phải nhập của Trung Quốc, và Triều Tiên, ta đã nhiều lần thí nghiệm trồng nhưng mới thành công trong phạm vi nhỏ ở Sapa.

Duyên hồ sách

Duyên hồ sách 40g, khô phàn 10g. Hai vị tán nhỏ, viên thành viên. Ngày ngậm 4-8g viên thuốc này.

Cây gai

Cây gai được trồng khắp nơi ở Việt Nam để lấy sợi hay lấy lá. Rễ ít được khai thác; người ta đào rể về rửa sạch đất, cắt thái miếng hoặc để nguyên rồi phơi khô hay sấy khô.

Thược dược (bạch thược, xích thược)

Chất axit benzoic trong thược dược uống với liều cao có thể sinh co quắp, cuối cùng mê sảng và chết. Do thành phần này, thược dược có tác dụng trừ đờm, chữa ho.

Bán hạ

Ngoài ra còn một số cây khác nữa, cần chú ý khi dùng và nghiên cứu. Cũng nên biết rằng mặc dù cùng một cây nhưng tuỳ theo củ to nhỏ khác nhau mà cho vị thuốc tên khác nhau.

Huyết giác

Cây huyết giác thường mọc hoang tại các vùng núi đá xanh vùng Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh. Núi đất không thấy có huyết giác.

Thiên lý

Tên khoa học Teiosma cordata (Burm.f.) Merr. (Asclepias cordata Burm.L, Pergularia minor Andr. Pergularia odoraĩissima Wight, Asclepias odoratissima Roxb.). Thuộc họ Thiên lý Asclepiadaceae.