Vi sinh học nhiễm trùng bệnh viện

2017-07-10 07:07 PM

Nhiễm trùng cơ hội gây nên do vi khuẩn ở khuẩn chí của người bệnh và thường không tránh khỏi vì liên quan đến tổn thương ở rào cản niêm mạc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhiễm trùng bệnh viện là nhiễm trùng xảy ra lúc người bệnh nằm điều trị ở bệnh viện, nhiễm trùng này không biểu hiện cũng không ở thời kỳ ủ bệnh lúc người bệnh vào viện. Những nhiễm trùng mắc phải ở bệnh viện nhưng chỉ biểu hiện sau khi người bệnh rời bệnh viện cũng được kể vào. Mặc dù nhiều nhiễm trùng bệnh viện có thể phòng ngừa nhưng có một số không thể phòng ngừa nên nhiễm trùng bệnh viện không tương đương với nhiễm trùng do thầy thuốc tức là nhiễm trùng do can thiệp chẩn đoán hoặc điều trị như đặt ống thông niệu đạo hoặc thông tĩnh mạch. Nhiễm trùng cơ hội xảy ra ở những bênh nhân mà cơ chế bảo vệ bị suy giảm và thường gây nên do những tác nhân nhiễm trùng bình thường không gây bệnh ở người khỏe mạnh. Nhiễm trùng cơ hội gây nên do vi khuẩn ở khuẩn chí của người bệnh và thường không tránh khỏi vì liên quan đến tổn thương ở rào cản niêm mạc hoặc những cơ chế bảo vệ khác của người bệnh.

Vi sinh vật gây nhiễm trùng bệnh viện

Thường gặp nhất là vi khuẩn hiếu khí Gram âm, tụ cầu, liên cầu ruột.

Trực khuẩn Gram âm quan trọng nhất trong các vi sinh vật gây nhiễm trùng bệnh viện vì chúng là tác nhân chính của nhiễm trùng đường tiểu và còn gây bệnh ở những vị trí khác. Những trực khuẩn đường ruột như  E. coli, Klebsiella thường tìm thấy trong nhiễm trùng bệnh viện ở những bệnh nhân mà cơ chế bảo vệ bị suy giảm. Nhiều trực khuẩn Gram âm như Pseudomonas và Klebsiella có nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu nên có thể tạo nên những ổ bệnh ở môi trường bệnh viện cũng như ở người bệnh. Các trực khuẩn Gram âm phát triển sự đề kháng thuốc nhanh hơn các cầu khuẩn Gram duơng, trực khuẩn Gram âm trở nên kháng thuốc qua thu hoạch plasmid R. Ngoài ra Enterobacter, Pseudomonas và Serratia còn có cơ chế đột biến nhiễm sắc thể đề kháng penicillin và cephalosporin.

Trong các cầu khuẩn Gram dương S. aureus hiện nay vẫn còn là tác nhân gây bệnh quan trọng. Nó thường gây nhiễm trùng vết thương phẩu thuật, bỏng và thông tĩnh mạch. Tụ cầu vàng tìm thấy khắp nơi, ở da, tóc, tị hầu của người bệnh và nhân viên bệnh viện, ở tay nhân viên bệnh viện, ở dụng cụ và ở hầu hết đồ vật tìm thấy ở bệnh viện. Nhiều chủng S. aureus kháng thuốc được tìm thấy ở nhiều bệnh viện, chúng có thể gây nên những vụ dịch nhiễm trùng ở những đơn vị chăm sóc tích cực. Chúng đề kháng với erythromycin, clindamycin và aminoglycoside. Những chúng tụ cầu kháng methicillin (MRSA: methicillin resistant S. aureus ) cũng là tác nhân gây nhiễm trùng bệnh viện gặp khá phổ biến nhiều nơi trên thế giới: ở Đan Mạch gặp với tỷ lệ 0,1%, Thuỵ Điển 0,3%, Hà Lan 1,5%, Thuỵ Sĩ 1,8%, ở một số nước khác tìm thấy cao hơn 20% chủng tụ cầu kháng methicillin như ở Áo 21,6%, Begium 25,6%, Tây Ban Nha 30,3%, Pháp 33,6% Những chủng S. epidermidis cũng mang những gen đa đề kháng và có thể truyền những gen đó  cho S. aureus.

Liên cầu ruột được biết từ lâu là một tác nhân nhiễm trùng bệnh viện quan trọng về đường tiểu, nó là tác nhân có ý nghĩa ở vết thương của những người bệnh điều trị với các cephalosporin. Đặc biệt nhiều chủng enterococci đề kháng aminoglycoside như gentamicin và vancomycin

Danh sách những vi sinh vật quan trọng trong nhiễm trùng bệnh viện đang tăng lên đáng kể. Những nhiễm trùng cơ hội gây nên bởi những vi khuẩn độc lực thấp (S. epidermidis) và nấm (Aspergillus, Candida) cũng thường gặp. Viêm ruột kết do Clostridium difficile là hậu quả của sự biến đổi khuẩn chí đường ruột do điều trị kháng sinh.

Virus đường hô hấp như virus hợp bào đường hô hấp và virus cúm, gần đây virus corona gây bệnh SARS (severe acute respiratory syndrome) là các tác nhân nhiễm trùng bệnh viện. Những virus khác như virus viêm gan, HIV liên hệ đến nhiễm trùng do truyền máu hoặc các sản phẩm máu, do tai biến. Cytomegalovirus, virus varicella-zoster và rotavirus cũng giữ một vai trò đáng kể trong nhiễm trùng bệnh viện, những tác nhân này gây nhiễm trùng bệnh viện ở những người suy miễn dịch, ở những bệnh nhân ghép cơ quam  .

Ổ chứa

Nhân viên y tế, bệnh nhân và những người đến thăm là ổ chứa đầu tiên.

Hầu hết nhiễm trùng bệnh viện xuất phát từ vi khuẩn sống trên cơ thể người bệnh

Các vi khuẩn gây bệnh thường cư trú ở các vị trí gồm: hốc mũi như tụ cầu vàng, tụ cầu kháng methicillin; trên da S. epidermidis; ở  đường tiêu hoá như enterococci, các vi khuẩn họ đường ruột, các loài Candida. Ở đường sinh dục tiết niệu enterococci, vi khuẩn họ đường ruột.

Những bệnh nhân bị nhiễm trùng hay ở tình trạng mang các vi khuẩn đề kháng như enterococci đề kháng thuốc, tụ cầu kháng methicillin, Clostridium difficile sẽ làm nhiễm bẩn môi trường. Và môi trường bị nhiễm bẩn lại trở thành ổ chứa thứ phát. Một số môi trường là ổ chứa đầu tiên một số vi khuẩn gây bệnh như: nước chứa vi khuẩn Legionella, các loài Pseudomonas; thức ăn chứa các vi khuẩn đường tiêu hoá

Sự lây truyền vi sinh vật trong nhiễm trùng bệnh viện

Lây trực tiếp

Trong bệnh viện, tay nhân viên y tế thường bị nhiễm bẩn tạm thời và thường là môi giới truyền vi khuẩn từ người này đến người khác. Những nhân viên y tế khoẻ mạnh thường mang các vi khuẩn gây bệnh như tụ cầu vàng, Streptococcus pyogenes, Salmonella enteritidis  và truyền các vi khuẩn này cho người bệnh.

Lây qua dụng cụ

Các dụng cụ như nhiệt kế điện tử, thuốc men, các loai dịch chuyền tĩnh mạch, thức ăn, sữa, các loai dung dịch uống có thể truyền các vi khuẩn gây nhiễm trùng bệnh viện cho người bệnh.

Lây qua không khí

Không khí trong bệnh viện, hệ thống thông khí có thể truyền các tác nhân như M. tuberculosis, virus varicella-zoster, virus corona gây SARS, các loài nấm Aspergillus. Bụi nước bị nhiễm bẩn có thể truyền các vi khuẩn Legionella

Những yếu tố ảnh hưởng đến nhiễm trùng bệnh viện

Cũng như phần lớn những nhiễm trùng, NTBV là hậu quả của sự tương tác giữa 2 nhân tố 

Yếu tố vi sinh vật

Độc lực và khả năng lan tràn của vi sinh vật gây bệnh,

Sự đề kháng của người bệnh

Tuổi, chứng bệnh, sự toàn vẹn của niêm mạc và da và tình trạng miễn dịch là những nhân tố chính quyết định tỷ lệ bệnh và hậu quả của nhiễm trùng bệnh viện. Những cơ chế bảo vệ cơ thể: vật lý (suy giảm trong trường hợp bỏng hoặc chấn thương), hóa học (thiếu HCl dịch vị, cắt dạ dày làm giới hạn  axit dịch vị) hoặc miễn dịch (bệnh Hodgkin, hóa liệu pháp chống ung thư.v.v...) ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiễm trùng bệnh viện.

Ngoài người bệnh và vi sinh vật, những nhân tố khác liên quan đến nhiễm trùng bệnh viện bao gồm các biện pháp chẩn đoán thăm dò chức năng, những phương thức điêu trị, những bệnh nhân nhiều nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện là những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, bệnh nhân điều trị với thuốc làm giảm sức bảo vệ (corticosteroid .v.v...) và bệnh nhân trong quá trình điều trị là đối tượng với nhiều lần can thiệp. Sử dụng ngày càng nhiều những phương pháp chân đoán gây chấn thương làm tăng xác suất nhiễm trùng bệnh viện.

Nhân viên bệnh viện cũng có nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện, nhân viên ở phòng xét nghiệm  có  mẫu nghiệm máu có thể mắc bệnh viêm gan virus, HIV và ở những khoa lây (lao, ho gà...).

Bài viết cùng chuyên mục

Proteus vi khuẩn đường ruột

Cấu trúc kháng nguyên của Proteus rất phức tạp. Người ta thấy có một mối tương quan đặc biệt giữa kháng nguyên O của một số chủng Proteus.

Xoắn khuẩn gây sốt vàng da xuất huyết (leptospira)

Các xoắn khuẩn có dạng hình xoắn, có khả năng di động, các xoắn khuẩn có nhiều nơi trong tự nhiên, nhiều loại ký sinh trên cơ thể người và động vật. Một số xoắn khuẩn gây bệnh cho người.

Huyết thanh phòng chống bệnh nhiễm trùng

Dùng huyết thanh miễn dịch là đưa vào cơ thể kháng thể có nguồn gốc từ người hay động vật, giúp cho cơ thể có ngay kháng thể đặc hiệu chống lại tác nhân gây bệnh.

Vi khuẩn gây bệnh ngộ độc thịt (clostridium botulinum)

Vi khuẩn giống Clostridium là các trực khuẩn gram dương, kỵ khí, sinh nha bào. Vi khuẩn này có trong đẩt, trong đường tiêu hóa của người và động vật, phần lớn trong chúng là các vi khuẩn sống hoại sinh.

Sự né tránh với đáp ứng miễn dịch của vi sinh vật gây bệnh

Về lý thuyết, vi khuẩn tồn tại trong cơ thể vật chủ càng lâu thì chúng càng có nhiều thời gian để gây tổn thương cho cơ thể.

Ảnh hướng của nhân tố vật lý đến sự phát triển của vi sinh vật

Vi sinh vật chịu ảnh hưởng của các tần số rung động của môi trường, yếu tố này có thể có tác dụng kích thích hay ức chế sự phát triển của vi sinh vật và tiêu diệt vi sinh vật.

Hậu quả sự nhân lên của virus trong tế bào

Sau khi virus xâm nhập và nhân lên trong tế bào thì hầu hết các tế bào bị phá hủy . Do các hoạt động bình thường của tế bào bị ức chế, các chất cần thiết cho tế bào.

Haemophilus trực khuẩn gram âm

Các Haemophilus ký sinh bắt buộc trên niêm mạc đường hô hấp hoặc đôi khi ở đường sinh dục của người hay động vật. Thuộc nhóm này có nhiều thành viên, ở đây chỉ giới thiệu Haemophilus influenzae, tác nhân chủ yếu gây nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ nhỏ.

Virus dại (rabies virus)

Virus dại có hình gậy giống như hình viên đạn, dài 130 - 240nm và đường kính 70 -80nm. Nucleocapsid đối xứng hình xoắn ốc, chứa ARN 1 sợi, có một vỏ ngoài mang các gai ngưng kết hồng cầu, bản chất là glycoprotein.

Burkholderia pseudomallei (trực khuẩn Whitmore)

B. pseudomallei là tác nhân gây ra bệnh Melioidosis, một bệnh thường gặp ở vùng Đông - Nam châu Á. Bệnh Melioidosis thường nặng, tỷ lệ tử vong cao do chẩn đoán lâm sàng khó khăn, bệnh hay tái phát và do B. pseudomallei kháng lại nhiều kháng sinh.

Phản ứng kết tủa của sự kết hợp kháng nguyên kháng thể trong chẩn đoán vi sinh

Kháng nguyên đa hóa trị kết hợp với kháng thể hóa trị hai để tạo thành kết tủa hình mạng lưới 3 chiều. Phản ứng có thể thực hiện ở môi trường lỏng hoặc môi trường gel.

Helicobacter pylori (vi khuẩn gây viêm loét dạy dày)

Vi khuẩn không lên men các loại đường, có oxydase và catalase, urease dương tính mạnh. Urease dương tính mạnh là tính chất dùng để phân biệt H. pylori với các vi khuẩn có hình cong khác như Campylobacter.

Ảnh hướng của nhân tố sinh vật đến sự phát triển của vi sinh vật

Trong quá trình tồn tại của vi sinh vật nếu chúng phải sống trong điều kiện có vi sinh vật khác thì chúng có thể bị cạnh tranh sinh tồn, bị tiêu diệt hoặc song song tồn tại.

Salmonella vi khuẩn đường ruột

Salmonella là trực khuẩn gram âm. Hầu hết các Salmonella đều có lông xung quanh thân, vì vậy có khả năng di động, không sinh nha bào.

Khả năng gây bệnh của vi sinh vật

Vi sinh vật gây bệnh là nguyên nhân của bệnh nhiễm trùng. Không có vi sinh vật gây bệnh thì không có nhiễm trùng. Khả năng gây bệnh của vi sinh vật phụ thuộc vào độc lực.

Các virus sinh khối u

U lành tinh và ác tính đều được gọi bằng một từ tận cùng là oma. Ung thư tạo bởi từ những lớp tế bào gọi là carcinoma, ung thư phát sinh từ mô liên kết hoặc mạch máu gọi là sarcoma.

Những đặc điểm của virus

Virus là tác nhân nhiễm trùng nhỏ nhất có thể lọt qua các lọc vi khuẩn, có cấu tạo rất đơn giản. Virus là một đại phân tử nucleoprotein có đặc tính cơ bản của một sinh vật.

Xoắn khuẩn giang mai (treponema pallidium)

Các xoắn khuẩn có dạng hình xoắn, có khả năng di động, các xoắn khuẩn có nhiều nơi trong tự nhiên, nhiều loại ký sinh trên cơ thể người và động vật. Một số xoắn khuẩn gây bệnh cho người.

Tiệt trùng và khử trùng trong y học

Trong phòng thí nghiệm vi sinh vật, tiệt trùng là biện pháp không thể thiếu được cho việc phân lập, nuôi cấy và lưu giữ các vi khuẩn thuần khiết.

Cơ chế đề kháng bảo vệ cơ thể đặc hiệu chống lại vi sinh vật gây bệnh

Sự hồi phục của cơ thể vật chủ trong nhiều trường hợp nhiễm vi sinh vật phụ thuộc vào sự xuất hiện của kháng thể bảo vệ. Sự tồn tại của kháng thể này cũng giúp cho cơ thể đề phòng tái nhiễm.

Các vi khuẩn gây bệnh hoại thư

Vi khuẩn có hình dạng trực khuẩn, không di động có vỏ khi phát triển ở trong cơ thể động vật và người, vi khuẩn sinh nha bào khi phát triển trong môi trường tự nhiên.

Virus Rubella

Virus rubella lây truyền qua chất tiết đường hô hấp, virus rubella ít lây hơn so với virus sởi và virus thủy đậu, tuy nhiên bệnh lây dễ dàng ở những nơi đông người.

Lịch sử phát triển của vi sinh vật học

Gần đây những kỹ thuật tổng hợp gen, tháo ghép gen làm cho công nghệ sinh học trở thành một lực lượng sản xuất mũi nhọn của nền kinh tế thế giới

Các kháng nguyên của virus gây bệnh

Bàn chất hoá học của vỏ ngoài thường là lipoprotein, ở một số virus là glycoprotein. Trên vỏ thường chứa các kháng nguyên đặc hiệu như yếu tố gây ngưng kết hồng cầu.

Khả năng gây bệnh của virus

Nhiễm virus không biểu lộ, nhiễm virus không có triệu chứng, virus ở trong cơ thể một thời gian ngắn và thải trừ nhanh