- Trang chủ
- Thông tin
- Tử vi và tướng pháp với sức khỏe
- Nghiên cứu về diện văn, tướng mệnh đàn bà
Nghiên cứu về diện văn, tướng mệnh đàn bà
Những nếp răn trên mặt, những vết ở trán, ở má, ở mũi... đều gọi là diện văn, tỉ dụ hai nếp răn thường ai cũng có từ hai cánh mũi chạy dài xuống cằm là pháp lệng văn.
Nguồn gốc của những văn đó ở đâu ?
Da thịt người ta do rất nhiều tế bào tổ chức thành, da lúc sơ sinh không có nếp răn. da trẻ con không có nếp văn là đẹp. Rồi theo với quá trình trưởng thành, do tư tưởng, vận động gân thịt và da mà sinh ra văn. Phàm những ai đa tư đa lự, từng cục bộ trên mặt thường chịu sự khiên dẫn của tư tưởng tác dụng vào, ngày này qua tháng khác lâu dần thành thếp răn.
Một văn hào Anh nói: Chơi với bạn nên chọn người nào da vẻ thô tạo.
Thô tạo theo ý ông là có nhiều nếp răn.
Câu ấy rất đúng vì ai diện mạo trơn tru quá thường là kẻ si ngốc, hoặc hèn ưa sư phụ, hoặc thích hư vinh. Tuy nhiên, không phải cứ có văn là tốt, kinh nghiệm tướng học cho biết có văn tốt và văn xấu.
Sách Tướng Lý Hành Châu viết:
Diện chi hữu văn lý, do nha dốc ngọc thạch hữu mạch lạc dã. Kỳ dị giả cát, phái toái giả hung, nhân chi văn lý, quý tiện khả đoán (nghĩa là: Trên mặt có nếp nhăn ví như sừng ngọc ngà, ngọc thạch có gân máu. Vẻ kỳ dị là tốt, gẫy phá là hung. Trông văn lý trên mặt con người ta khả dĩ đoán định quí tiện)
Văn mang nhiều hình thù:
Văn chạy ngang, văn chạy dọc, văn chữ thập, văn chữ chếch, văn mắt lưới, văn bán nguyệt, văn chữ xuyên (ba vệt dọc đứng liền), văn chữ tam (ba vệt ngang nằm chồng lên nhau), văn chữ Vương (ba vệt ngang, giữa có một vệt dọc), văn rắn bò (một vệt ngang chạy gấp khúc) thủy văn (nhiều văn ngang chạy lăn tăn như nước), hỏa văn (nhiều văn chếch chạy lém lên lém xuống như lửa cháy).
Hung hay cát của văn tuỳ thuộc nơi nó hiện, tùy thuộc sự sắp xếp, tùy thuộc nó gãy nát hay tiếp nối. Hãy nói về văn trên trán trước:
- Trán vuông vắn đầy đặn mà có ba vệt chạy song song hai đầu vễnh lên gọi là tam văn uyển thượng quý đến bậc khanh tướng, nếu là vương tự văn thì quý đến bậc công hầu.
- Trán có ba vết chạy ngang từ góc này sang góc kia gọi là tam hoàng văn nhiễu chủ vào việc mồ côi cha.
- Trán có một vệt văn ngang chạy ngoằn ngoèo là sà hành văn thì chết đường.
- Có nhiều văn ngang chạy chằng chịt trên cái trán hẹp và xấu gọi là hoa cái văn, cô độc và vô tử.
- Trán có hai văn dọc dựng đứng ở giữa trán, chạy tới ấn đường gọi là thiên trụ văn, nếu trán đẹp tất hiển đạt.
- Trán có ba văn dựng đứng như chữ xuyên là xuyên tự văn, đàn bà khắc phu.
- Trán có văn ngang chạy thẳng băng băng là người nhẫn nại, chịu đựng.
Bây giờ nói tới văn ở khu vực mắt:
- Có những văn dăn dúm ở trên lông mày hoặc ở ấn đường (vị trí giữa hai chân mày) tất ưu sầu cùng khổ, nếu những vết ấy đi theo đôi mắt dữ tợn là phường trộm cắp.
- Ấn đường có hai vệt dọc thẳng và thanh tú rất quý, thô lậu là bần tiện.
- Ấn đường có một văn dọc gọi là huyền châm văn, ly phu.
- Ấn đường có văn chữ thập, làm ăn dễ giàu.
- Văn chữ thập nhưng chéo như hai thanh kiếm vắt chéo gọi là giao kiếm văn, gần thái dương, ấn đường, trán, mũi, lưỡng quyền, hai bên miệng, dễ chết vì đao cung, súng đạn.
- Dưới mắt có văn ngang dọc như lưới đan, dễ phẫ uất mà tự tử hoặc hình hại về đường tử tức. Nếu nó ở gần miệng thì bị đói khổ, nếu nó ở dìa mặt là triệu chứng chết vì sông nước.
- Hiên môn (khoảng dưới đuôi mắt ra tóc mai) có văn loạn là dâm đãng.
- Nhiều văn ngang nơi lệ đường (dưới hai mắt), con cái hư hỏng, hoặc hữu sinh vô dưỡng.
- Đuôi con mắt làm thành một văn chạy chếch lên thái dương rất tốt chủ về sự sang quý, nhiều may mắn nhưng đàn bà lừa dối chồng.
Sau đây là văn ở khu vực mũi và miệng:
- Văn chạy ngang sơn căn (gốc mũi) xấu, buồn khổ, gia đạo kém may mắn.
- Có những văn dọc trên sống mũi nhất là chúng lại uốn thành óc câu thì hình phu và đa phu. Nhưng nếu hai văn ngang giữa có một văn dọc như chữ sĩ lại lấy chồng đỗ đạt cao.
- Lường quyền có văn chếch chạy xuống như dấu huyền, làm ăn dễ phá bại.
- Những văn ở khu vực mũi chạy vào miệng qua góc miệng đều gọi là đằng sà nhập khẩu (rắn bay vào miệng) chết đói. Chết đói không nhất thiết là vì nghèo khổ, có thể vì đau cả tháng không ăn mà chết đói.
- Hai má có những văn ngang là hung tử.
- Môi có nhiều văn hằn lên là cô độc.
- Miệng có nhiều văn xâm vào làm cho dúm lại, phi bần tắc yểu.
Dưới đây là những câu thơ, phú về văn tướng:
Nhân đáo trung niên thủy hữu văn
Ấu thời nhược hiện mạc hân hân.
(nghĩa là: Con người ta đến tuổi trung niên mới được có văn, nếu ấu thời mà văn hiện lên là điều đáng lo ngại)
Văn sinh diện dề tường thiện ác
Hiển tại hà bộ hề định hưng suy
Ngách lộ vương tự hề vị cư long các
Uyễn ngưỡng hề tam hoạch thân đáo phượng trì
Huyền châm ấn đường hề lục thân cừu địch
Văn câu thọ thượng hề bán thế ưu nguy
Dịch mã, sơn lâm văn kiến tắc chiêu ngoại ách
Lệ đường thê tòa lý xâm tắc sinh nội bi
Thân ngã tử hề to xá loạn văn
Hiên môn tỉnh văn hề bất sinh ly nhi thê ải
Mi gian tam đạo hoành văn hề tử ư binh nhẫn
Thiệt thượng luỡng điều hồng lạc hề su bái đan trì
Ngữ vĩ đa văn hề chí lão hà tằng an dật
Chuẩn đầu lý loạn hề sinh an đắc duy trì.
nghĩa là:
Mặt có văn để biểu hiện thiện ác
Văn ở chỗ nào có thể đoán định hưng suy
Trên trán có văn chữ vương địa vị nơi bệ rồng
Ba văn uyển nguyệt làm việc trong cung điện
Huyền châm văn nơi ấn đường anh em bất hòa
Văn mó câu trên mũi nữa đời đói khổ
Góc trán có văn phá chớ nên đi xa
Dưới mắt, hiên môn có văn xấu nữa đường đứt gánh
Đằng sà nhập khẩu chết không cơm trong bụng
Trán nhiều loạn văn phá tổ nghiệp
Hiên môn có văn như mắt lưới vợ chồng chia lìa
Mi hiện lên ba văn ngang chết vì binh đao
Trên lưỡi có hai văn đỏ hồng thì đỗ đạt
Đuôi mắt nhiều văn thành đuôi cá đến già còn vất vả
Đầu mũi văn phá cuộc sống khó thanh nhàn.
Sách tướng còn nói đến một loại văn nữa gọi là văn mắt cua (giải nhãn văn) hình thù nó gồm một vòng nhỏ hình bầu dục có đuôi là một vệt dài. Nếu có giải nhãn văn hiện lên trên vừng trán thì tiếng tăm vang bốn bể (Ngách thượng giải nhãn chi hình danh văn tứ hải)
Bạch Quý Canh làm huyện lệnh ở Bành Thành. Mãi đến năm 41 tuổi ông mới lấy vợ. Người vợ lại là cháu gọi ông bằng cậu chừng 15 tuổi. Theo pháp luật đời nhà Đường bấy giờ chuyện họ hàng cửu thích lấy nhau như vậy là có tội.
Hôn nhân bất chính thường này đã gây thành bi kịch cho cả hai vợ chồng. Đối với chồng đường sĩ họan bị cắt đoạn, đối với vợ gia đình xã hội ruồng bỏ.
Sinh đứa con đầu lòng nó bị chết yểu phần vì Bành Quý Canh quan chức nhỏ bé nay chỗ này mai chỗ khác, phần vì có lẽ mang cùng dòng máu nên đứa bé yếu nhược.
Về sau Trần thị sinh thêm hai đứa nữa, đặt tên là Bạch Cư Dị và Bạch Hành Giản.
Bành Quý Canh vào lúc loạn An Sử vừa dứt, trật tự xã hội hoàn toàn bị phá hoại bởi chiến tranh. Người làm quan nếu không có sản nghiệp, hoặc đã không có cơ hội vơ vét, chỉ biết trông vào lương bổng thì sinh hoạt hết sức đắng cay tân khổ.
Nhà họ Bạch trước đủ ăn, kinh qua chiến loạn, trạng huống kinh tế trở nên bết bát. Mẹ phải làm thêm mới đủ kiếm sống, vừa phải canh cửi bếp nước, lại vừa phải nuôi dạy hai con. Ức uất mệt nhọc tích lâu ngày đã khiến cho tâm lý Trần Thị sinh biến thái, bà ghét cay đắng ông chồng, hành vi cử chỉ đối với ông thường hun hãn. Bành Quý Canh buồn phiền tìm cách dựa vào những công vụ để không đồng cư với vợ nữa.
Vợ chồng ăn ở với nhau đúng 25 Bành Quý Canh mất. Trần thị vừa 40 tuổi. Hai con trai Bạch Cư Dị và Bạch Hành Giản đều chưa trưởng thành.
Chồng chết rồi tính tình Trần thị càng hoại hơn trước, biến thành điên rồ, bà thường rên la rồi quát tháo đập phá. Bạch Cư Dị thờ mẹ rất có hiếu, suốt ngày hầu hạ thuốc men không hề trễ nãi. Nhưng bệnh của mẹ chẳng làm sao chữa khỏi. Có lần bà đã đâm dao vào cổ tự sát. Bởi vậy, Bạch Cư Dị càng cực khổ hơn, ngày đêm không dám rời mẹ.
Đến khi Bạch Cư Dị đỗ tiến sĩ làm quan tại Trường An, ông di chuyển cả gia đình tới đó rồi đi tìm lương y khắp nơi về chữa bệnh cho mẹ. Nhưng bệnh điên của Trần thị chỉ giãm đi được phần nào mà không khỏi.
Rồi một hôm bà ở ngoài vườn xem hoa, căn bệnh lên cơn bất ngờ, liền nhảy xuống cái giếng khô mà chết.
Trong lịch sử khoa tướng học có ghi về tướng của bà mẹ ông Bạch Cư Dị như sau:
Trần thị lạc tỉnh trung ác tử chỉ vị nhãn hạ hữu hung văn (Trần thị ngã xuống giếng chết hung chỉ vì dưới mắt có hung văn).
Bài xem nhiều nhất
Tướng dâm: tướng mệnh đàn bà
Nghiên cứu đôi mắt của nữ nhân, tướng mệnh đàn bà
Tướng vào bộ, ngũ đoản, ngũ trường, ngũ lộ, ngũ tiểu, lục đại, tướng mệnh khảo luận
Hình tướng cầm thú của con người: tướng mệnh khảo luận
Hồng nhan bạc mệnh, tướng mệnh đàn bà
Môi răng và lợi của nữ nhân: tướng mệnh đàn bà
Luận về dị tướng và phá tướng: tướng mệnh khảo luận
Tướng bên trong và ám phá tướng của phụ nữ, tướng mệnh khảo luận
Tướng pháp cổ đối với tướng phụ nữ, tướng mệnh khảo luận
Tai và miệng, tướng mệnh khảo luận
Đối với nữ nhân, mũi, mắt, lông mày, răng, miện tóc, tai không chỉ liên quan đến thân phận mà còn liên quan đến tình dục nữa.
Mắt đàn bà trước hết phải thanh tú, trong vắt như nước hồ thu, thanh tú nhưng cái nhìn chánh trực. Hình con mắt phải nhỏ thuôn dài như chiếc lá rau răm
Xương cốt không lộ, gân mạch lẩn mới tốt; nếu gân mạch quằn quại nổi lên như giun, xương cốt thô lộ là ác tướng, nếu tay ngắn, chân dài thì khổ cực
Tướng cầm tướng thú đã thành hình cục thì tính chất phú quý, bần tiện thọ yểu càng rõ rệt, đồng thời ở trong hình cục, những tướng gì tách riêng ra.
Hồng nhan còn cần điều kiện khác nữa là chứa chất tài hoa, thông tuệ, duyên dáng và tình tứ, nếu đẹp mà ngu như bò thì không thể liệt vào loại hồng nhan
Môi trên, mội dưới phải bằng bặn, không được môi trên chùm môi dưới hoặc ngược lại nếu môi dưới quá thượng hay môi trên cái hạ đều là tướng cô khổ.
Dị tướng không chỉ thể hiện lên từng điểm trên các bộ vị mà còn hiện thành nghi biểu vóc dáng. Tướng pháp cổ nhân phân định bảy nghi biểu dị tướng.
Tướng học cũng không bỏ sót điều quan trọng trên đây. Chỉ khác là tướng học đi tìm cái đẹp bên trong để tìm đến một hiểu biết khác biệt với hội hoạ
Chỗ dụng của thể nhu là nhuyễn nhược. Nay nếu nữ hình lại cương mà dũng, tính tình bạo mà cấp gọi là phản hình, không được cái đẹp trung hòa của lý và đạo
Tai cao hơn mắt, hơn chân mày không bao giờ khổ. Tai nở, sáng và tròn có chức vị. Dái tai mọng đỏ, tai sáng và sạch phú quý trường cửu