Trị liệu trầm cảm

2013-08-11 09:23 AM

Những thuốc chống trầm cảm mạnh nhất được phát triển đó chính là  những chất ức chế monoamine oxidaze (MAOIs). Các thuốc này ngăn ngừa monoamine oxidaze phân huỷ norepinephrine ở trong khe xi nap và giúp duy trì tác dụng của nó.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những thuốc làm tăng epinephrine: MAOIs

Những thuốc chống trầm cảm mạnh nhất được phát triển đó chính là  những chất ức chế monoamine oxidaze (MAOIs). Các thuốc này ngăn ngừa monoamine oxidaze phân huỷ norepinephrine ở trong khe xi nap và giúp duy trì tác dụng của nó. Cũng như trong nhiều trường hợp trị liệu tâm thần khác, việc phát hiện ra tác dụng chống trầm cảm của MAOIs chỉ là tình cờ. Lúc đầu chúng được dùng để điều trị lao, tuy nhiên người ta lại thấy khí sắc của người bệnh cũng được cải thiện. Từ đó MAOIs đã trở thành thuốc thường dùng để chống trầm cảm. Tỉ lệ thành công của nó đạt khoảng 50%.

Tuy nhiên cũng có một số điểm cần lưu ý khi sử dụng MAOIs. Cũng như khi ở não, chúng ngăn cản sản xuất monoamine oxidaze ở gan và ruột. Khi phân chia thành tyramine, chất có thể làm tăng huyết áp đột ngột lên mức gây tử vong nếu như được tích luỹ trong cơ thể. Để tránh nguy cơ đó, những người dùng MAOIs cần kiêng các thứ như pho mát, vang đỏ, marmile (một loại mứt được chế từ men rượu hay hoa quả dùng để phết lên bánh - ND), chuối và một số loại cá có chứa tyramine. Khi ăn các thực phẩm này có nguy cơ tăng huyết áp đột ngột lên mức gây tử vong. Để tránh những vấn đề đó người ta đã sản xuất ra một số MAOIs mới được gọi là MAOIs đảo ngược có lựa chọn. Tuy nhiên những nghiên cứu mới đây cho thấy vai trò của serotonin còn quan trọng hơn cả norepinephrine trong nguyên nhân trầm cảm. Do vậy hầu hết trị liệu đều hướng đến thuốc nhằm thay đổi nồng độ của serotonin: thuốc 3 vòng và các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có lựa chọn (SSRIs).

Các thuốc tăng serotonin: thuốc 3 vòng và SSRIs

Hai nhóm thuốc nhằm làm tăng nồng độ  của serotonin bằng cách ức chế tái hấp thu nó ở tận cùng trước xi nap: thuốc 3 vòng (ví dụ, imipramine, amitriptyline) và SSRIs (ví dụ, fluoxetine, sertraline). Thuốc 3 vòng cũng làm tăng mức độ   của norepinephrine. Lúc đầu loại 3 vòng thứ nhất, imipramine cũng đã được dùng để trị liệu tâm thần phân liệt song không hiệu quả, tuy nhiên nó lại làm giảm mức độ trầm cảm ở nhiều người. Khoảng 60-65% số người dùng thuốc 3 vòng được cải thiện  triệu chứng (Hirschfeld, 1999). Kết quả của nó thể hiện rõ rệt sau khoảng hơn chục ngày. Điều này có thể là do  ngay từ đầu nó đã làm giảm khối lượng serotonin được sản xuất ở đầu mút trước xi nap nhằm đáp ứng với yêu cầu trong khe xi nap. Sự cải thiện khí sắc xuất hiện sau khi hệ thống chấp nhận thuốc và bắt đầu lại giải phóng serotonin với mức độ bình thường, ngăn ngừa sự tái hấp thu và cuối cùng tăng lượng serotonin cần thiết. Điều quan trọng là sau khi đã cải thiện được khí sắc, cần phải duy trì chế độ điều trị  trong vòng vài tháng: khoảng 50% số trường hợp tái phát trong vòng 1 năm là do dừng thuốc sớm (Montgomery và cs, 1993).

Tác dụng phụ:

SSRIs là phương tiện dược lý được ưa dùng hiện nay. Nó làm tăng nồng độ của serotonin nhưng không ảnh hưởng đến nồng độ của norepinephrine. Mặc dù chúng có thể không hiệu quả hơn thuốc 3 vòng. Song chúng có tác dụng phụ ít hơn, dạng như táo bón, khô miệng. Chúng cũng ít nguy hiểm hơn khi dùng quá liều. Rocca và cs. (1977) xác định được rằng 56% số người dùng thuốc 3 vòng cảm thấy khô miệng, trong khi đó con số này ở những người dùng SSRIs chỉ có 8%. Hiện nay thuốc 3 vòng và SSRIs là những lựa chọn để điều trị trầm cảm. MAOIs có thể có hiệu quả điều trị đối với một số cá nhân không đáp ứng các thuốc trên. Tuy nhiên nguy cơ tiềm tàng khi dùng làm cho chúng là lựa chọn thứ 2.

Tác dụng phụ như khô miệng đối với một số người chỉ là chuyện vặt, song đối với người dùng thuốc thì đó có thể là đáng kể. Một số người dùng thuốc cho biết:

Điều tồi tệ nhất khi tôi dùng thuốc này là cảm giác khô miệng. Khi tôi nói “khô miệng” là tôi đã biết rất rõ mình nói gì. Miệng và đôi môi tôi lúc nào cũng khô. Lúc nào tôi cũng muốn uống để khỏi khô miệng. Tuy nhiên uống cũng không thể giúp được nhiều. Cuối cùng tôi chuyển sang dùng kẹo cao su. Lúc nào tôi cũng nhai và tôi đã chán ngấy kẹo cao su rồi. Điều này có vẻ không phải là cái gì ghê gớm, tuy nhiên khi anh cảm thấy hầu như suy sụp thì càng có cảm giác tệ hơn.

Một phụ nữ khác, người dùng SSRIs có kết quả tốt thì lại đề cập ít hơn đến tác dụng phụ.

Dùng thuốc này rất tuyệt- tôi cảm thấy tốt lên rất nhiều. Tuy nhiên cũng có một vấn đề… Khi tôi bị trầm cảm, điều mà tôi muốn là làm tình với chồng tôi. Bây giờ tôi không thể đợi được…nhưng điều khó chịu là tôi không thể đạt được cực khoái. Chuyện như đùa nhưng đó là điều khó chịu.

Câu chuyện Prozac:

Prozac (tên gọi khác là fluoxetine) là một SSRI hiện nay được kê đơn nhiều mặc dù nó vẫn là một  trong những thuốc tâm thần còn đang có những ý kiến khác nhau. Eli Lilly, người điều chế ra nó  thì mô tả nó như là số một  của các thuốc chống trầm cảm thế hệ mới không có tác dụng phụ. Cũng cần phải nói thêm rằng nó được phổ biến nhanh chóng không chỉ vì tác dụng chống trầm cảm mà còn giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của những người không bị trầm cảm. Điều này dường như làm tăng sự tin cậy, được phổ biến xã hội rộng hơn và giảm sự lo âu, ngại ngùng đối với mọi người xung quanh. Kết quả là nó đã được chỉ định rộng rãi ở Mĩ cho không chỉ những người bị trầm cảm mà cả những người có nhu cầu  làm giảm căng thẳng cảm xúc.

Thành công ban đầu ngay lập tức đã bị suy giảm bởi một loạt các phàn nàn rằng Prozac có tác dụng phụ nhiều hơn là nhà sản xuất thông báo (xem www. prozactruth.com). Điều đáng ngại nhất là người dùng thuốc có thể  bị mất khả năng kiềm chế hành vi và dẫn đến tự làm hại bản thân hoặc gây rắc rối với người khác. Lipinski và cs. (1989) thông báo hiện tượng tăng động (akathisia) đáng kể, thậm chí có cả những trường hợp kích động. Những hiện tượng này chiếm tỉ lệ khoảng 10-25% số người dùng Prozac. Điều này có thể tiềm ẩn mối liên quan đến tự sát và xâm kích. Có rất nhiều trường hợp trong tiền sử đã có những nguy cơ liên quan đến sử dụng Prozac. Rothschild & Locke (1991) thông báo 3 trường hợp tự sát và có ý định tự sát khi đang dùng Prozac. Có lẽ điều tồi tệ nhất liên quan đến Prozac đó là vụ của Joseph Wesbecker, đã bắn 20 người trong đó có 8 người chết tại nơi làm việc trước khi tự sát. Trong thời gian này Wesbecker đang dùng Prozac (Geoffrey, 1991). Điều đặc biệt chú ý là mặc dù còn ít những trường hợp được nghiên cứu và những câu chuyện giật gân chưa thể là bằng chứng về mối liên quan giữa Prozac với những hành vi nguy hiểm song nó đã làm cho dư luận quan tâm nhiều hơn đến việc kê đơn thuốc.

Những nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến Pozac nhỏ hơn so với các nghiên cứu trước đây và như vậy nó cũng kéo theo những giải thích khác nhau. Jick và cs. (1995) đã theo dõi 170.000 người dùng 1 trong 10 loại thuốc chống trầm cảm trong vòng 5 năm. Sau đó tác giả đã so sánh tỉ lệ tự sát đối với những trường hợp dùng thuốc khác nhau. Tỉ lệ được tính theo 10.000 người/năm. Tỉ lệ thấp nhất là 4,7 ở những người dùng Lofepramine, tỉ lệ tự sát trung bình là 10,8/10.000 người/năm. Tỉ lệ cao nhất là ở những người dùng Prozac: 19,0/10.000 người/năm. Các tác giả cho rằng nguy cơ tự sát ở những người dùng Prozac là do nhiều yếu tố khác nhau chứ không chỉ riêng do thuốc. Trong số đó có hiệu quả kém và cảm giác muốn chết khi dùng thuốc chống trầm cảm khác. Sau khi tính tách biệt từng yếu tố, nguy cơ tự sát ở những người dùng Prozac giảm đi rõ rệt, tuy nhiên tỉ lệ tự sát vẫn cao hơn một chút so với trung bình. Mặc dù có những lưu ý như vậy song ở Mĩ trong những trường hợp những người đang dùng Prozac có hành vi phạm pháp thì vẫn bị xét xử như thường.

Bài viết cùng chuyên mục

Mô hình gia đình các rối loạn sức khoẻ tâm thần

Dựa trên lí thuyết hệ thống mà người ta đã xây dựng những mô hình gia đình về rối loạn sức khỏe tâm thần và cách trị liệu của các rối loạn đó. Lí thuyết này xem gia đình hoặc những nhóm xã hội khác như là một hệ thống những cá nhân có  liên quan với nhau.

Dự phòng những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1996), tăng cường sức khoẻ bao gồm rất nhiều sự can thiệp đa dạng phức tạp ở những mức độ khác nhau không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bệnh tật mà còn khuyến khích, thúc đẩy sức khoẻ tích cực.

Trị liệu lo âu

Benzodiazepine tốt nhất, Valium mới được đưa ra thị trường vài năm, vào giữa những năm 1980, các benzodiazepine là thuốc hướng thần được chỉ định rộng rãi nhất.

Giải thích về trị liệu sinh học hành vi dị thường

Những giải thích và trị liệu sinh học các rối loạn tâm thần dựa trên cơ sở rằng hành vi và cảm xúc được điều hành bởi các hệ thống của não. Những hệ thống này cho phép chúng ta tiếp nhận thông tin, tích hợp thông tin với trí nhớ và các yếu tố nổi bật khá.

Trị liệu tâm thần phân liệt

Trị liệu sốc điện (ECT) là cho dòng điện phóng qua não trong một khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích nhằm gây ra các cơn co giật kiểu động kinh, giúp cải thiện trạng thái tâm thần.

Những quan điểm hiện đại về tính dị thường

Mô hình không tưởng cho rằng chỉ có những người nào đạt được mức độ tối đa so với khả năng của mình trong cuộc sống thì họ mới không có những vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Những vấn đề chẩn đoán hành vi dị thường

Gốc rễ của tiếp cận này nằm trong các nghiên cứu của Kraepelin ở vào cuối thế kỉ 19. Ông đã mô tả một loạt các hội chứng, mỗi hội chứng lại có một phức bộ các triệu chứng.

Các lựa chọn của mô hình y khoa hành vi dị thường

Tiếp cận chiều hướng quan niệm rằng nên coi người đã được chẩn đoán rối loạn tâm thần thực ra là ở đầu mút của sự phân bố bình thường

Trị liệu tâm lí hoặc trị liệu dược lí hành vi dị thường

Tất cả các mô hình đã được bàn luận đều dựa trên quan niệm cho rằng nguyên nhân của các rối loạn tâm thần nằm trong cá nhân, đó có thể là do di truyền, hoá sinh hoặc tâm lí.

Nguyên nhân những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Có rất nhiều tài liệu khác nhau tập trung vào những yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe tâm thần. Những yếu tố này không tác động một cách riêng rẽ mà có sự kết hợp với nhau tạo thành nguy cơ xuất hiện các rối loạn tâm thần ở cá nhân.

Những yếu tố trong phạm vi trị liệu hành vi bất thường

Việc tự bạch diễn ra khi nhà trị liệu kể cho thân chủ những câu chuyện tương ứng với tình huống của thân chủ, như những trải nghiệm tương tự, ý nghĩ, cảm xúc và phản ứng của cá nhân.

Nguyên nhân của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là trung tâm của cuộc tranh luận khoa học về bản chất và vai trò của dinh dưỡng trong sự phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần. Có lẽ chiếm ưu thế là mô hình nguyên nhân của tâm thần phân liệt khi cho rằng nó có căn nguyên sinh học.

Bản chất của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là một trong những chẩn đoán tâm thần gây nhiều tranh cãi nhất. Trải qua các thời kỳ, người ta vẫn còn tranh luận rằng  liệu có thật sự tồn tại một trạng thái tâm thần phân liệt, nó là do di truyền hay do môi trường.

Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt của DSM

Chỉ cần 1 trong các triệu chứng đó khi có hoang tưởng kỳ quái hoặc ảo thanh bình phẩm hành vi hay ý nghĩ của cá nhân hoặc ảo thanh là 2 hay nhiều giọng nói trò chuyện với nhau.

Tiến trình trị liệu hành vi bất thường

Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ nhờ sự phát triển phong phú và đa dạng của những phương pháp khác nhau, phỏng vấn lâm sàng vẫn là công cụ chính để tìm hiểu vấn đề của thân chủ. Shea (1998) đưa ra 6 mục tiêu của sự đánh giá ban đầu.

Điều trị tâm thần phân liệt

Hầu hết những người được chẩn đoán tâm thần phân liệt đều đã được dùng một loại thuốc nào đó mặc dù liều lượng có thể được giảm hoặc thậm chí được uống trong thời kì ổn định.

Rối loạn hoảng sợ hành vi dị thường

Yếu tố trung tâm của phản ứng hoảng sợ là sự kích thích sinh lí ở mức độ cao, khởi đầu là sự hoạt hoá của vùng dưới đồi và được trung gian bởi hệ thần kinh giao cảm.

Rối loạn lo âu lan toả hành vi dị thường

DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa rối loạn lo âu lan toả (GAD - Generalized anxiety disorder) là sự lo âu hay phiền muộn quá mức và kéo dài liên tục, xuất hiện ngày càng nhiều trong một khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng.

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức hành vi dị thường

Những ý nghĩ, sự thôi thúc hay những hình ảnh lặp đi lặp lại và dai dẳng mà chủ thể phải trải nghiệm như một sự chịu đựng và vô lí, khiến cho chủ thể lo lắng và khổ sở một cách đáng kể.

Bản chất và nguyên nhân trầm cảm

Hệ thống phân loại bệnh DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa một giai đoạn trầm cảm chủ yếu khi có sự xuất hiện của ít nhất 5 trong số các triệu chứng, trong tối thiểu 2 tuần.

Rối loạn cảm xúc theo mùa hành vi dị thường

Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hành vi dị thường

Người bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực (bipolar disorder) trải qua cả trầm cảm và những giai đoạn hưng cảm. Theo DSM-IV-TR, cơn hưng cảm bao gồm ít nhất ba trong số các triệu chứng.

Nguyên nhân và trị liệu hành vi tự sát

Tự sát không phải là một rối loạn cảm xúc. Nó không chỉ liên quan duy nhất đến trầm cảm. Song, đây là một vấn đề nghiêm trọng và liên quan rõ rệt đến trầm cảm hơn bất cứ rối loạn sức khỏe tâm thần nào được nhắc đến trong phần này.

Rối loạn stress sau sang chấn

Nó có thể bao gồm những trải nghiệm chiến tranh, bị lạm dụng tình dục hoặc thể chất thời thơ ấu, cưỡng dâm, thiên tai hoặc những thảm họa do công nghệ.

Rối loạn xác định phân ly

Một đặc tính của những cá nhân được chẩn đoán là mắc chứng rối loạn xác định phân li (DID - dissociative identity disorder) là rằng họ cư xử như họ có hai hay nhiều hơn những bản thể hoặc nhân cách khác biệt.

Bằng chứng và phục hồi trí nhớ

Trong cuộc tranh luận về tính chân thực của trí nhớ khôi phục, mỗi bên đều đưa ra bằng chứng để khẳng định ý kiến của mình đồng thời để nghi ngờ những ý kiến đối lập.

Co thắt âm đạo hành vi bất thường

Một trong những cách giải lo âu liên quan đến hành vi tình dục là bằng kĩ thuật tập trung vào cảm giác, với mức độ tiến dần từ từ đến động chạm vào bộ phận sinh dục.

Rối loạn xác định giới hành vi dị thường

Để giải thích mong muốn thay đổi dương vật, Ovesey & Person nhấn mạnh rằng những người loạn dục chuyển đổi giới không lo lo sợ bị thiến như những cậu bé khác.

Rối loạn chức năng tình dục

Chưa có nhiều những đánh giá về can thiệp nhận thức trong trị liệu rối loạn cương cứng, mặc dù Goldman và Carroll cũng đã thông báo kết quả của một số xemina.

Loạn dục cải trang hành vi dị thường

Lặp đi lặp lại những tưởng tượng kích thích hoặc đòi hỏi tình dục với cường độ mạnh hoặc các hành vi như mặc quần áo của người khác giới trong khoảng thời gian ít nhất là trên 6 tháng.

Loạn dục đa dạng hành vi bất thường

Không dễ dàng gì phân biệt đâu là hoạt động tình dục “bình thường” và đâu là “không bình thường”. Tuy vậy cũng có những hành vi tình dục dễ dàng xếp vào “không bình thường”. ở đây muốn đề cập đến loạn dục đa dạng (paraphilias).

Loạn dục với trẻ em

Những hành vi loạn dục với trẻ em cũng rất khác nhau. Một số người chỉ nhìn mà không đụng chạm vào trẻ. Một số khác lại thích động chạm hoặc cởi quần áo của chúng.

Các rối loạn nhân cách hành vi dị thường

Mức độ phân bố trong dân cư của những rối loạn khác nhau như sau: 0,4% dân số đối với rối loạn nhân cách paranoid và ái kỉ, 4,6% đối với rối loạn nhân cách ranh giới (Davidson 2000).

Rối loạn nhân cách ranh giới hành vi dị thường

DSM-IV-TR định nghĩa rối loạn nhân cách ranh giới gồm các mối quan hệ liên cá nhân, hình ảnh bản thân, tình cảm không ổn định và có xung động rõ rệt. Nó khởi phát từ đầu thời thơ ấu và bao gồm 5 trong số những triệu chứng.

Nhân cách chống đối xã hội hành vi dị thường

Thuật ngữ nhân cách chống đối xã hội và nhân cách bệnh thường được sử dụng thay thế nhau. Thực tế, hạng mục DSM-IV-TR dành cho nhân cách chống đối xã hội đã kết hợp chẩn đoán rối loạn này với nhân cách bệnh, đây là điểm khác biệt so với DSM III.

Chán ăn và cuồng ăn tâm lí hành vi dị thường

Chán ăn tâm lí bao gồm những thái độ, ý định làm cho bản thân càng gầy càng tốt. Thực vậy, nói một cách ngắn gọn lại về chán ăn là sự giảm cân một cách đáng kể.

Khó học với hành vi dị thường

Tiêu chuẩn đầu tiên để chẩn đoán rối loạn khả năng học là khởi phát trước tuổi 18, ngoại trừ những rối loạn cảm xúc do chấn thương hoặc những bệnh thần kinh khởi phát muộn.

Tự kỷ với hành vi dị thường

Đó là chưa kể đến một số vấn đề khác nhẹ hơn, khá phổ biến trong dân cư (Bailey và cs. 1995). Những khả năng và khó khăn của người tự kỉ cũng rất khác nhau.

Rối loạn tăng động giảm chú ý

Rất nhiều trẻ em có một số đặc điểm của ADHD. Ranh giới không rõ ràng giữa hành vi “bình thường” và “bệnh lí” và tiềm ẩn sự lạm dụng chẩn đoán ADHD để bắt những đứa trẻ quậy phá phải điều trị.

Xơ vữa rải rác tâm lý dị thường

Tiến trình MS rất khác nhau ở các cá nhân. ít có trường hợp khởi phát trước 15 tuổi; 20% số trường hợp bị MS có dạng khởi đầu giống như một bệnh trong đó các triệu chứng hầu như không tiến triển sau khi xuất hiện.

Chấn thương sọ não tâm lý dị thường

Chấn thương sọ não kín xuất hiện khi đầu bị va chạm mạnh nhưng không có tổn thương hộp sọ hoặc vết thương não đặc biệt. Dạng chấn thương như vậy thường gây ra sự chấn động toàn bộ não trong hộp sọ và tổn thương lan toả.

Bệnh Alzheimer tâm lý dị thường

Bệnh Alzheimer là một dạng thường gặp nhất của mất trí, chiếm khoảng 5-10% số người trên 65 tuổi và ít nhất 20% số người trên 80 tuổi (Roca và cs. 1998).

Rối loạn thần kinh tâm lý dị thường

Trong chấn thương sọ não, các quá trình nhận thức cũng có thể bị tổn thiệt đáng kể, tuy nhiên sau đó nó có thể được hồi phục một phần

Đánh bạc bệnh lí tâm lý dị thường

Một trong những yếu tố được xem như có liên quan tới đánh bạc là cái “thú” của thắng bạc hoặc gần thắng bạc, nó cũng tương đương với việc đạt được cái thú đó trong nghiện ma túy.

Sử dụng heroin tâm lý dị thường

Các opiate là một nhóm các loại chất gây nghiện chiết xuất từ cây thuốc phiện. Những chiết xuất chủ yếu, theo thứ tự về khả năng gây nghiện là thuốc phiện, moocphin và heroin.

Lạm dụng rượu tâm lý dị thường

Rượu là một chất gây nghiện hợp pháp. Uống đến mức độ vừa phải, một vài loại rượu như rượu vang đỏ, có thể có lợi cho sức khỏe. Nhưng việc sử dụng rượu quá mức lại là có hại.