Oxycontin: thuốc điều trị đau nặng cần dùng thuốc opioid hàng ngày

2021-01-09 08:31 PM

Oxycontin được chỉ định dùng ở người lớn cho điều trị đau đủ nặng để cần dùng một thuốc opioid hàng ngày, đều đặn, trong một khoảng thời gian dài và chỉ định cho các trường hợp các phương pháp điều trị thay thế khác không đáp ứng đủ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhà sản xuất

Mundipharma.

Thành phần

Mỗi viên: Oxycodone hydrochloride 10mg, 15mg, 20mg, 30mg, 40mg, 60mg hoặc 80mg.

Mô tả

Oxycontin 10mg tròn, màu trắng, lồi hai mặt, dập chữ OP trên một mặt và số 10 trên mặt còn lại.

Oxycontin 20mg tròn, màu hồng, lồi hai mặt, dập chữ OP trên một mặt và số 20 trên mặt còn lại.

Dược lý

Oxycodone hydrochloride là một chất chủ vận opioid toàn phần và tương đối có chọn lọc với thụ thể muy, mặc dù nó có thể kết hợp với thụ thể opioid khác ở liều cao. Tác dụng điều trị chủ yếu của oxycodone là giảm đau. Như tất cả các chất chủ vận opioid toàn phần, không có trần với hiệu quả giảm đau cho oxycodone. Trên lâm sàng, liều lượng được điều chỉnh để có tác dụng giảm đau và có thể giới hạn bởi các phản ứng có hại, bao gồm suy hô hấp và ức chế thần kinh trung ương.

Cơ chế tác dụng

Hệ thần kinh trung ương.

Cơ chế chính xác của tác dụng giảm đau chưa rõ ràng. Tuy nhiên, các thụ thể opioid trên hệ thần kinh trung ương đặc hiệu đối với các chất nội sinh có hoạt tính kiểu opioid đã được xác định trong não và tủy sống và được cho là đóng vai trò trong các tác dụng giảm đau của thuốc này.

Dược lực học

Một nghiên cứu đơn liều, mù đôi, có đối chứng placebo và so sánh các mức liều đã được thực hiện sử dụng Oxycontin (10, 20, và 30 mg) trong một mô hình giảm đau bao gồm 182 bệnh nhân đau mức độ vừa đến nặng. Oxycontin liều 20 mg và 30 mg tạo ra tác dụng giảm đau có ý nghĩa thống kê so với placebo.

Các tác dụng trên hệ thần kinh trung ương

Oxycodone gây ra suy hô hấp bằng cách tác động trực tiếp đến trung tâm hô hấp ở thân não. Tình trạng suy hô hấp bao gồm cả việc giảm các đáp ứng của trung tâm hô hấp ở thân não đối với sự gia tăng áp suất CO2 và với kích thích điện.

Oxycodone làm giảm phản xạ ho do tác dụng trực tiếp trung tâm ho ở hành tủy. Tác dụng chống ho có thể xảy ra với các mức liều thấp hơn so với liều cần dùng cho tác dụng giảm đau.

Oxycodone làm co đồng tử, ngay cả trong bóng tối hoàn toàn. Đồng tử rất nhỏ là một dấu hiệu của Quá liều opioid nhưng không phải là đặc trưng cho bệnh (ví dụ như tổn thương cầu não có nguồn gốc xuất huyết hoặc thiếu máu cục bộ có thể tạo ra kết quả tương tự). Có thể quan sát thấy giãn đồng tử đáng kể chứ không phải là co đồng tử kèm theo thiếu oxy trong các tình trạng Quá liều oxycodone.

Các tác dụng trên đường tiêu hóa và cơ trơn khác

Oxycodone gây giảm nhu động liên quan với sự gia tăng trương lực cơ trơn ở hang vị dạ dày và tá tràng. Tiêu hóa thức ăn trong ruột non bị trì hoãn và giảm co bóp đẩy đi. Sóng nhu động đẩy đi trong đại tràng bị giảm, trong khi trương lực có thể tăng lên đến điểm co thắt dẫn đến táo bón. Các tác dụng khác gây ra bởi opioid có thể bao gồm giảm tiết dịch dạ dày, mật và tuyến tụy, co thắt cơ vòng Oddi, và gia tăng thoáng qua amylase huyết thanh.

Các tác dụng trên hệ tim mạch

Oxycodone có thể gây giải phóng histamin có hoặc không có kèm theo giãn mạch ngoại vi. Biểu hiện của giải phóng histamin và/hoặc giãn mạch ngoại vi có thể bao gồm ngứa, đỏ bừng, mắt đỏ, ra mồ hôi, và/hoặc tụt huyết áp tư thế.

Các tác dụng trên hệ nội tiết

Các opioid ức chế sự tiết ACTH, cortisol, testosteron, và hormon tạo hoàng thể (luteinizing hormon - LH) ở người. Các thuốc này cũng kích thích tiết prolactin, hormon tăng trưởng (GH), và sự bài tiết insulin và glucagon ở tụy.

Các tác dụng trên hệ miễn dịch

Các opioid đã được chứng minh là có nhiều tác dụng trên các thành phần của hệ thống miễn dịch trong các mô hình in vitro và trên động vật. Ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện này là không rõ. Nhìn chung, các tác dụng của các opioid dường như ức chế miễn dịch rất ít.

Các mối liên quan giữa nồng độ - hiệu quả

Nghiên cứu trên người tình nguyện khỏe mạnh và trên bệnh nhân cho thấy mối liên quan có thể dự đoán được giữa liều dùng và nồng độ trong huyết tương của oxycodone, cũng như giữa nồng độ và một số tác dụng của opioid dự kiến, chẳng hạn như co đồng tử, an thần, "tác dụng thuốc" chủ quan chung, giảm đau và cảm giác thư giãn.

Nồng độ thuốc tối thiểu để giảm đau hiệu quả sẽ rất khác nhau giữa các bệnh nhân, đặc biệt là ở những bệnh nhân đã được điều trị trước đó với các opioid chủ vận mạnh. Kết quả là, bệnh nhân phải được điều trị bằng cách điều chỉnh liều theo từng cá thể để đạt được hiệu quả mong muốn. Nồng độ thuốc tối thiểu để giảm đau hiệu quả của oxycodone đối với bất kỳ bệnh nhân nào có thể tăng theo thời gian do sự gia tăng mức độ đau, sự phát triển của hội chứng đau mới và/hoặc sự phát triển của dung nạp thuốc giảm đau.

Các mối liên quan giữa nồng độ và phản ứng có hại

Có một mối liên quan giữa sự tăng nồng độ oxycodone trong huyết tương và sự gia tăng tần số phản ứng có hại của opioid liên quan đến liều như buồn nôn, nôn, các tác dụng trên thần kinh trung ương, và ức chế hô hấp. Ở những bệnh nhân dung nạp opioid, tình hình có thể được thay đổi bởi sự phát triển của khả năng dung nạp các tác dụng phụ liên quan đến opioid.

Liều Oxycontin phải được cá thể hóa vì liều giảm đau hiệu quả đối với một số bệnh nhân sẽ là quá cao đối với các bệnh nhân khác do không dung nạp được.

Dược động học

Hoạt tính của Oxycontin chủ yếu là do thuốc mẹ oxycodone. Oxycontin được thiết kế để giải phóng oxycodone trong 12 giờ.

Cắt, phá vỡ, nhai, nghiền hoặc hòa tan Oxycontin làm suy yếu các cơ chế giải phóng kiểm soát và dẫn đến việc giải phóng nhanh và hấp thụ một liều có khả năng gây tử vong của oxycodone.

Oxycodone giải phóng từ Oxycontin không phụ thuộc pH. Sinh khả dụng đường uống của oxycodone là 60% đến 87%. Sinh khả dụng tương đối theo đường uống của oxycodone từ Oxycontin so với các dạng bào chế dùng đường uống giải phóng nhanh là 100%. Sau khi dùng liều lặp lại với Oxycontin ở người khỏe mạnh trong các nghiên cứu dược động học, đã đạt được nồng độ ở trạng thái ổn định trong vòng 24-36 giờ. Oxycodone được chuyển hóa mạnh và thải trừ chủ yếu qua nước tiểu dưới dạng cả chất chuyển hóa liên hợp và không liên hợp. Thời gian bán thải (t1/2) của oxycodone sau khi uống Oxycontin là 4,5 giờ so với 3,2 giờ của oxycodone dạng viên giải phóng nhanh.

Hấp thu

Khoảng 60% đến 87% liều uống của oxycodone vào được khoang trung tâm so với một liều tiêm. Sinh khả dụng cao theo đường uống này là do chuyển hóa trước khi vào hệ thống và/hoặc chuyển hóa vòng đầu thấp.

Nồng độ oxycodone trong huyết tương theo thời gian

Tính chất tỷ lệ theo liều đã được thiết lập đối với các viên nén Oxycontin hàm lượng 10mg, 15mg, 20mg, 30mg, 40mg, 60mg và 80mg cho cả nồng độ đỉnh trong huyết tương (Cmax) và mức độ hấp thu (AUC). Với thời gian bán thải t½ của oxycodone ngắn, nồng độ ở trạng thái ổn định của oxycodone trong huyết tương đạt được trong vòng 24 -36 giờ sau khi bắt đầu dùng Oxycontin. Trong một nghiên cứu so sánh 10 mg Oxycontin mỗi 12 giờ với 5 mg oxycodone viên nén giải phóng nhanh mỗi 6 giờ, cả hai chế độ điều trị là tương đương về AUC và Cmax, và tương tự về nồng độ Cmin (đáy).

Ảnh hưởng của thức ăn

Thức ăn không có tác dụng đáng kể đến mức độ hấp thu của oxycodone từ Oxycontin.

Phân bố

Sau khi tiêm tĩnh mạch, thể tích phân bố ở trạng thái ổn định (VSS) của oxycodone là 2,6 L/kg. Oxycodone liên kết với protein huyết tương trong điều kiện nhiệt độ 37°C và pH 7.4 là khoảng 45%. Sau khi hấp thu, oxycodone được phân bố đến cơ xương, gan, đường ruột, phổi, lá lách, và não. Oxycodone đã được tìm thấy trong sữa mẹ.

Chuyển hóa

Oxycodone được chuyển hóa mạnh bởi nhiều con đường chuyển hóa khác nhau để tạo thành noroxycodone, oxymorphone và noroxymorphone, mà sau đó được liên hợp glucuronid. Noroxycodone và noroxymorphone là các chất chuyển hóa tuần hoàn chính. Phản ứng N-demethyl hóa qua trung gian CYP3A để tạo thành noroxycodone là con đường chuyển hóa chính của oxycodone và với mức độ ít hơn là từ phản ứng O-demethyl hóa để tạo thành oxymorphone qua trung gian CYP2D6. Do đó, sự hình thành của các chất này và các chất chuyển hóa có liên quan, có thể, về lý thuyết, bị ảnh hưởng bởi các loại thuốc khác.

Noroxycodone thể hiện khả năng chống nhận cảm đau rất yếu so với oxycodone, tuy nhiên, nó trải qua quá trình oxy hóa tiếp theo để sản xuất noroxymorphone, một chất có hoạt tính trên các thụ thể opioid. Mặc dù noroxymorphone là một chất chuyển hóa có hoạt tính và hiện diện ở nồng độ tương đối cao trong hệ tuần hoàn, nhưng nó có vẻ không vượt qua hàng rào máu não ở mức độ đáng kể. Oxymorphone hiện diện trong huyết tương chỉ ở nồng độ thấp và trải qua quá trình chuyển hóa tiếp theo để tạo thành hợp chất liên hợp glucuronid và noroxymorphone. Oxymorphone đã được chứng minh là có hoạt tính và thể hiện tác dụng giảm đau nhưng phần đóng góp để có tác dụng giảm đau của chất này sau khi tiêm oxycodone được cho là không có ý nghĩa lâm sàng. Các chất chuyển hóa khác (α- và β-oxycodol, noroxycodol và oxymorphol) có thể có mặt ở nồng độ rất thấp và được chứng minh là thâm nhập hạn chế vào trong não so với oxycodone. Các enzyme chịu trách nhiệm về các con đường khử keto và glucuronid hóa trong chuyển hóa của oxycodone đã không được xác định.

Thải trừ

Oxycodone và các chất chuyển hóa của nó được thải trừ chủ yếu qua thận. Lượng thuốc đo được trong nước tiểu đã được báo cáo như sau: oxycodone dạng tự do và liên hợp 8,9%, noroxycodone dạng tự do 23%, oxymorphone dạng tự do dưới 1%, oxymorphone dạng liên hợp 10%, noroxymorphone dạng tự do và liên hợp 14%, các chất chuyển hóa dạng khử tự do và liên hợp lên đến 18%. Độ thanh thải toàn phần từ huyết tương là khoảng 1,4 lít/phút ở người lớn.

Quần thể bệnh nhân đặc biệt

Sử dụng ở người già

Nồng độ trong huyết tương của oxycodone bị ảnh hưởng bởi tuổi tác chỉ trên danh nghĩa, lớn hơn 15% ở người cao tuổi so với người trẻ tuổi (21-45 tuổi).

Giới tính

Qua các nghiên cứu dược động học riêng lẻ, nồng độ oxycodone trung bình ở các đối tượng nữ cao hơn các đối tượng nam lên đến 25% tính trên cơ sở điều chỉnh theo trọng lượng cơ thể. Chưa rõ lý do của sự khác biệt này.

Bệnh nhân suy thận

Dữ liệu từ một nghiên cứu dược động học liên quan đến 13 bệnh nhân rối loạn chức năng thận mức độ từ nhẹ đến nặng (độ thanh thải creatinin < 60mL/phút) cho thấy các nồng độ đỉnh trong huyết tương của oxycodone và noroxycodone cao hơn lần lượt là 50% và 20% và các giá trị AUC của oxycodone, noroxycodone, và oxymorphone cao hơn lần lượt là 60%, 50%, và 40% so với người bình thường. Sự gia tăng này đi kèm với sự gia tăng tác dụng an thần nhưng không khác biệt trong tần số thở, mức độ co đồng tử, hoặc một số thông số đo đạc khác về tác dụng của thuốc. Thời gian bán thải trung bình t1/2 của oxycodone tăng 1 giờ.

Bệnh nhân suy gan

Dữ liệu từ một nghiên cứu gồm 24 bệnh nhân rối loạn chức năng gan mức độ nhẹ đến trung bình cho thấy các nồng độ đỉnh trong huyết tương của oxycodone và noroxycodone cao hơn tương ứng 50% và 20% so với người khỏe mạnh. Giá trị AUC cao hơn tương ứng là 95% và 65%. Nồng độ đỉnh của oxymorphone và giá trị AUC thấp hơn 30% và 40%. Những khác biệt này có kèm theo tăng một số, nhưng không phải tất cả các tác dụng của thuốc. Thời gian bán thải trung bình t1/2 của oxycodone tăng 2,3 giờ.

Tương tác thuốc - thuốc

Các chất ức chế CYP3A4

CYP3A4 là enzym chủ yếu liên quan đến việc hình thành noroxycodone. Sử dụng đồng thời Oxycontin (10 mg liều duy nhất) và chất ức chế CYP3A4 ketoconazole (200 mg, 2 lần/ngày) làm tăng thêm AUC và Cmax của oxycodone lần lượt là 170% và 100%

Các chất gây cảm ứng CYP3A4

Một nghiên cứu được công bố cho thấy sử dụng đồng thời rifampin, một loại thuốc gây cảm ứng enzym chuyển hóa, làm giảm giá trị AUC và Cmax của oxycodone lần lượt là 86% và 63%.

Các chất ức chế CYP2D6

Oxycodone được chuyển hóa một phần qua CYP2D6 để tạo thành oxymorphone. Trong khi con đường này có thể bị chặn bởi nhiều loại thuốc như một số thuốc tim mạch (ví dụ, quinidin) và thuốc chống trầm cảm (ví dụ, fluoxetin), sự  ức chế như vậy đã không được chứng minh là có ý nghĩa lâm sàng với Oxycontin.

Chỉ định và công dụng

Oxycontin được chỉ định dùng ở người lớn cho điều trị đau đủ nặng để cần dùng một thuốc opioid hàng ngày, đều đặn, trong một khoảng thời gian dài và chỉ định cho các trường hợp các phương pháp điều trị thay thế khác không đáp ứng đủ.

Các giới hạn sử dụng

Do nguy cơ nghiện thuốc, lạm dụng và sử dụng sai mục đích các thuốc opioid, ngay cả ở liều khuyến cáo, và nguy cơ cao hơn của việc Quá liều và tử vong với dạng opioid giải phóng kéo dài, chỉ dùng Oxycontin cho bệnh nhân mà các phương pháp điều trị thay thế khác (ví dụ thuốc giảm đau không opioid hoặc các opioid giải phóng nhanh) không hiệu quả, không dung nạp, hoặc không đủ để kiểm soát đau.

Không chỉ định Oxycontin dùng như là một thuốc giảm đau khi cần theo hoàn cảnh (pro re nata).

Liều lượng và cách dùng

Hướng dẫn quan trọng về liều lượng và cách dùng

Oxycontin chỉ được kê đơn bởi bác sỹ có kinh nghiệm trong việc sử dụng các opioid có hoạt tính mạnh để kiểm soát đau mạn tính.

Sử dụng liều thấp nhất có hiệu quả trong khoảng thời gian ngắn nhất, phù hợp với mục tiêu điều trị trên từng bệnh nhân.

Liều dùng đối với mỗi cá thể phải được căn cứ vào mức độ nặng của đau, đáp ứng của bệnh nhân, kinh nghiệm điều trị đau trước đó, và nguy cơ nghiện, lạm dụng thuốc và việc dùng thuốc sai mục đích.

Giám sát bệnh nhân chặt chẽ về suy hô hấp, đặc biệt là trong vòng 24-72 giờ đầu điều trị và sau khi tăng liều Oxycontin, và điều chỉnh liều phù hợp.

Hướng dẫn bệnh nhân uống nguyên viên nén Oxycontin, một viên mỗi lần, với đủ nước để đảm bảo nuốt ngay sau khi để thuốc trong miệng cắt, phá vỡ, nghiền nát, nhai, hoặc hòa tan viên nén Oxycontin sẽ không kiểm soát được sự giải phóng oxycodone và có thể dẫn đến Quá liều hoặc tử vong.

Uống Oxycontin mỗi 12 giờ.

Liều khởi đầu trên bệnh nhân người lớn không dung nạp với opioid

Liều Oxycontin khởi đầu cho những bệnh nhân không dung nạp opioid là 10 mg mỗi 12 giờ. Sử dụng liều khởi đầu cao cho những bệnh nhân không dung nạp opioid có thể gây ức chế hô hấp dẫn đến tử vong.

Chuyển đổi từ các Opioid sang Oxycontin ở người lớn

Chuyển đổi từ các chế phẩm oxycodone đường uống khác sang Oxycontin

Nếu chuyển đổi từ các chế phẩm oxycodone đường uống khác sang Oxycontin, sử dụng một nửa tổng liều oxycodone uống hàng ngày của bệnh nhân thành liều dùng của Oxycontin mỗi 12 giờ.

Chuyển đổi từ các opioid khác sang Oxycontin

Ngừng sử dụng các thuốc giảm đau opioid khác khi bắt đầu liệu trình điều trị bằng Oxycontin.

Chưa thiết lập được tỉ lệ qui đổi từ các opioid khác sang Oxycontin xác định bằng các thử nghiệm lâm sàng. Dùng Oxycontin liều khởi đầu là uống 10 mg mỗi 12 giờ.

Sẽ an toàn hơn khi đánh giá thấp đi nhu cầu oxycodone đường uống trong 24 giờ của bệnh nhân và cung cấp thuốc cứu hộ (ví dụ, thuốc opioid giải phóng nhanh) hơn là ước tính quá cao liều oxycodone đường uống trong 24 giờ và lại cần kiểm soát các phản ứng bất lợi do Quá liều. Tuy có những bảng qui đổi tương đương của các opioid, có sự dao động đáng kể giữa các bệnh nhân về hoạt lực tương đối của các opioid khác nhau.

Việc theo dõi sát sao và điều chỉnh liều thường xuyên phải được đảm bảo cho đến khi ổn định được việc kiểm soát đau với một thuốc opioid mới. Theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng do ngừng thuốc opioid trên bệnh nhân và các dấu hiệu của giảm đau quá mức/ngộ độc sau khi chuyển đổi sang Oxycontin.

Chuyển đổi từ Methadone sang Oxycontin

Giám sát chặt chẽ là điều rất quan trọng khi chuyển đổi từ methadone sang thuốc chủ vận opioid khác. Tỷ lệ giữa methadone và thuốc chủ vận opioid khác thay đổi khá rộng so với liều đã dùng trước đó. Methadone có thời gian bán thải dài và có thể tích lũy trong huyết tương.

Chuyển đổi từ Fentanyl thấm qua da sang Oxycontin

Có thể bắt đầu điều trị bằng Oxycontin sau khi đã lột bỏ miếng dán fentanyl thấm qua da được ít nhất 18 giờ. Mặc dù chưa có đánh giá hệ thống cho sự chuyển đổi như vậy,  bắt đầu với một chuyển đổi thận trọng, bằng cách thay thế  mỗi 25 mcg/giờ của fentanyl dạng miếng dán thấm qua da bằng 10 mg Oxycontin mỗi 12 giờ. Giám sát bệnh nhân chặt chẽ trong quá trình chuyển đổi từ fentanyl thấm qua da sang Oxycontin, do chỉ có kinh nghiệm hạn chế được ghi nhận với loại chuyển đổi này.

Điều chỉnh liều và duy trì điều trị ở người lớn

Điều chỉnh liều Oxycontin trên từng bệnh nhân để đạt mức liều mà có tác dụng giảm đau đầy đủ và tối thiểu hóa các phản ứng có hại. Liên tục đánh giá lại bệnh nhân sử dụng Oxycontin về duy trì kiểm soát đau, các dấu hiệu và triệu chứng ngừng thuốc và các phản ứng có hại, cũng như giám sát sự phát triển tình trạng nghiện thuốc, lạm dụng thuốc và việc dùng thuốc không đúng mục đích. Trao đổi thường xuyên giữa bác sỹ kê đơn, các nhân viên y tế liên quan, bệnh nhân, và người chăm sóc/gia đình bệnh nhân trong giai đoạn thay đổi nhu cầu điều trị giảm đau, bao gồm cả sự điều chỉnh liều ban đầu là rất quan trọng. Trong điều trị mạn tính, định kỳ đánh giá lại nhu cầu tiếp tục sử dụng các thuốc giảm đau opioid của bệnh nhân.

Bệnh nhân đau cấp có thể cần điều chỉnh liều Oxycontin hoặc có thể cần một thuốc cứu hộ loại giảm đau giải phóng nhanh với liều lượng thích hợp. Nếu như mức độ đau tăng lên sau liều dùng duy trì, cần cố gắng xác định nguồn gốc làm cơn đau tăng lên, trước khi tăng liều lượng Oxycontin. Do nồng độ trong huyết tương ở trạng thái ổn định đạt được trong khoảng 1 ngày, liều Oxycontin có thể được điều chỉnh mỗi 1-2 ngày.

Nếu bệnh nhân không chấp nhận được phản ứng có hại liên quan đến opioid, có thể giảm liều dùng tiếp theo. Hãy điều chỉnh liều để có được một sự cân bằng thích hợp giữa kiểm soát đau và các phản ứng có hại liên quan đến opioid.

Chưa có nghiên cứu lâm sàng có đối chứng tốt đánh giá an toàn và hiệu quả với chế độ liều có số lần dùng nhiều hơn  một lần mỗi 12 giờ. Như một gợi ý cho các bệnh nhân người lớn, tổng liều oxycodone hàng ngày thường có thể được tăng thêm từ 25% đến 50% liều dùng hiện tại, mỗi lần có chỉ định lâm sàng cho việc tăng liều.

Điều chỉnh liều khi dùng đồng thời với các thuốc ức chế thần kinh trung ương

Nếu bệnh nhân đang sử dụng các thuốc ức chế thần kinh trung ương và được chỉ định dùng Oxycontin, bắt đầu dùng liều từ 1/3 đến ½ liều khởi đầu khuyến cáo của Oxycontin và cân nhắc giảm liều thuốc ức chế thần kinh trung ương dùng cùng lúc, đồng thời, theo dõi các dấu hiệu suy hô hấp, an thần và hạ huyết áp.

Điều chỉnh liều trên bệnh nhân cao tuổi bị suy nhược và không dung nạp opioid

Đối với bệnh nhân cao tuổi bị suy nhược và không dung nạp opioid, liều khởi đầu từ 1/3 đến ½ liều khởi đầu khuyến cáo của Oxycontin và chỉnh liều một cách thận trọng.

Điều chỉnh liều trên bệnh nhân bị suy giảm chức năng gan

Đối với bệnh nhân suy giảm chức năng gan, bắt đầu dùng liều từ 1/3 đến ½ liều khởi đầu khuyến cáo, sau đó điều chỉnh liều một cách cẩn thận. Theo dõi các dấu hiệu suy hô hấp, an thần và hạ huyết áp.

Ngừng sử dụng Oxycontin

Khi bệnh nhân không còn cần điều trị bằng viên nén Oxycontin, giảm dần liều từ 25% đến 50% mỗi 2 đến 4 ngày, đồng thời theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng do ngừng thuốc. Nếu thấy bệnh nhân có các dấu hiệu và triệu chứng này, tăng lại liều tới mức liều trước đó rồi giảm dần liều dùng với tốc độ chậm hơn, bằng cách tăng khoảng cách giữa các lần giảm liều hoặc giảm mức độ thay đổi liều thuốc hoặc cả hai. Không ngừng Oxycontin đột ngột.

Cảnh báo

Nghiện thuốc, sự lạm dụng thuốc và dùng thuốc không đúng mục đích

Bệnh nhân sử dụng Oxycontin là một opioid có nguy cơ nghiện thuốc, lạm dụng và dùng thuốc không đúng mục đích. Giống như các dạng bào chế có thay đổi về giải phóng hoạt chất, Oxycontin giải phóng opioid trong thời gian dài, nên có nguy cơ cao hơn sự Quá liều và tử vong do sự hiện diện một lượng lớn oxycodone.

Mặc dù chưa biết rõ nguy cơ nghiện thuốc của từng cá thể riêng biệt, nghiện thuốc có thể xảy ra với cả bệnh nhân được kê liều Oxycontin phù hợp. Nghiện thuốc có thể xảy ra ở liều khuyến cáo và nếu lạm dụng thuốc hoặc dùng sai mục đích.

Cần đánh giá nguy cơ về  nghiện thuốc, lạm dụng và sử dụng sai mục đích thuốc opioid của mỗi bệnh nhân trước khi kê đơn Oxycontin và giám sát các bệnh nhân dùng Oxycontin về việc phát sinh các hành vi và tình trạng nghiện, lạm dụng, dùng sai mục đích. Nguy cơ lạm dụng opioid tăng lên ở những bệnh nhân có tiền sử nghiện, cá nhân hoặc gia đình nghiện (bao gồm cả lạm dụng hoặc nghiện ma túy hoặc rượu) hoặc bệnh tâm thần (ví dụ, trầm cảm nặng). Tuy nhiên không nên vì sự lo ngại những nguy cơ này, mà không điều trị đau thích hợp với bất kỳ bệnh nhân nào. Những bệnh nhân có nguy cơ cao vẫn có thể điều trị thích hợp với các opioids như Oxycontin, tuy nhiên sử dụng ở những bệnh nhân này cần đi kèm với tư vấn chuyên sâu về những rủi ro và sử dụng hợp lý Oxycontin với sự theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu của việc nghiện, lạm dụng, sử dụng thuốc không đúng mục đích.

Sử dụng sai hoặc lạm dụng Oxycontin bằng cách nghiền, nhai, hít, hoặc tiêm chích chế phẩm đã được hòa tan sẽ dẫn đến  không kiểm soát được việc phóng thích opioid vào cơ thể và có thể dẫn đến Quá liều và tử vong.

Chất chủ vận opioid được tìm kiếm bởi người nghiện ma túy và người bị rối loạn nghiện thuốc và bị cấm sử dụng bất hợp pháp. Hãy xem xét những rủi ro này khi kê đơn hoặc cấp phát.

Cần có chiến lược để làm giảm những nguy cơ này bao gồm kê đơn với số lượng thích hợp thấp nhất và tư vấn cho bệnh nhân và người chăm sóc bệnh nhân về việc xử lý đúng quy định đối với lượng thuốc không sử dụng hết.

Suy hô hấp đe dọa tính mạng

Suy hô hấp nghiêm trọng, đe dọa tính mạng, hoặc gây tử vong đã được báo cáo khi sử dụng các opioid giải phóng biến đổi, ngay cả khi sử dụng ở liều khuyến cáo. Suy hô hấp nếu không được phát hiện và điều trị ngay lập tức, có thể dẫn đến ngừng hô hấp và tử vong. Điều trị ức chế hô hấp có thể bao gồm quan sát chặt chẽ, các biện pháp hỗ trợ, và sử dụng thuốc đối kháng opioid, tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Sự ứ đọng carbon dioxide (CO2) do ức chế hô hấp gây ra bởi opioid có thể làm trầm trọng thêm tác dụng an thần của opioid.

Trong khi suy hô hấp nghiêm trọng, đe dọa tính mạng, hoặc gây tử vong có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong thời gian sử dụng của Oxycontin, nguy cơ xuất hiện cao nhất là khi bắt đầu điều trị hoặc khi tăng liều. Giám sát chặt chẽ bệnh nhân về các dấu hiệu suy hô hấp khi bắt đầu điều trị với Oxycontin và sau khi tăng liều. Để giảm nguy cơ suy hô hấp, dùng liều thích hợp và điều chỉnh liều Oxycontin là rất cần thiết. Ước lượng liều Oxycontin quá cao khi chuyển đổi bệnh nhân từ một chế phẩm opioid khác có thể dẫn đến Quá liều gây tử vong với liều đầu tiên.

Vô tình nuốt phải một liều Oxycontin, đặc biệt là trẻ em, có thể dẫn đến suy hô hấp và tử vong do Quá liều oxycodone.

Hội chứng ngừng thuốc ở trẻ sơ sinh

Sử dụng kéo dài Oxycontin trong khi mang thai có thể dẫn đến hội chứng cai thuốc ở trẻ sơ sinh. Không giống như hội chứng ngừng thuốc ở người lớn, hội chứng cai thuốc ở trẻ sơ sinh có thể đe dọa tính mạng nếu không phát hiện, điều trị, và tuân theo phác đồ được phát triển bởi các chuyên gia chuyên khoa sơ sinh. Theo dõi các dấu hiệu của hội chứng ngừng thuốc ở trẻ sơ sinh và xử lý tương ứng. Hãy tư vấn cho bệnh nhân về nguy cơ của hội chứng ngừng thuốc ở trẻ sơ sinh và đảm bảo sẵn sàng việc điều trị thích hợp.

Nguy cơ khi dùng đồng thời hoặc ngưng sử dụng các chất ức chế hoặc cảm ứng CYP3A4

Dùng đồng thời Oxycontin với các chất ức chế CYP3A4 như kháng sinh macrolide (ví dụ erythromycin), thuốc kháng nấm nhóm azole (ví dụ ketoconazole), và chất ức chế protease (ví dụ ritonavir) có thể tăng nồng độ oxycodone trong huyết tương và kéo dài các phản ứng bất lợi của opioid dẫn đến có khả năng suy hô hấp nguy cơ tử vong, đặc biệt là khi thêm một thuốc ức chế CYP3A4 sau khi đã đạt được liều Oxycontin ổn định. Tương tự, ngưng sử dụng một thuốc cảm ứng CYP3A4, ví dụ rifampin, carbamazepine và phenytoin ở bệnh nhân đang điều trị với Oxycontin có thể tăng nồng độ oxycodone trong huyết tương và kéo dài các phản ứng bất lợi của opioid. Khi sử dụng Oxycontin với các thuốc ức chế CYP3A4 hoặc ngưng sử dụng các thuốc cảm ứng CYP3A4 trên bệnh nhân đang điều trị với Oxycontin, cần giám sát bệnh nhân chặt chẽ, thường xuyên và cân nhắc giảm liều Oxycontin đến khi đạt được hiệu quả ổn định của thuốc.

Dùng đồng thời Oxycontin với các thuốc cảm ứng CYP3A4 hoặc ngưng sử dụng một thuốc ức chế CYP3A4 có thể làm giảm nồng độ oxycodone trong huyết tương, giảm tác dụng opioid hoặc có thể dẫn đến hội chứng ngừng thuốc trên bệnh nhân phát triển lệ thuộc thể chất với oxycodone. Khi sử dụng Oxycontin với các thuốc cảm ứng CYP3A4 hoặc ngưng sử dụng các thuốc ức chế CYP3A4 cần theo dõi bệnh nhân thường xuyên và chặt chẽ, cân nhắc tăng liều opioid nếu cần thiết để duy trì hiệu quả giảm đau phù hợp hoặc nếu hội chứng ngừng thuốc xuất hiện.

Nguy cơ khi sử dụng đồng thời với các thuốc Benzodiazepine hoặc với các thuốc ức chế thần kinh trung ương khác

An thần mạnh, hôn mê hoặc suy hô hấp có thể xảy ra nếu như Oxycontin được sử dụng đồng thời với các thuốc ức chế thần kinh trung ương khác (ví dụ như thuốc an thần hoặc thuốc ngủ, benzodiazepine, thuốc chống lo âu, thuốc giãn cơ, thuốc gây mê toàn thân, thuốc chống loạn thần, các thuốc opioid khác, rượu). Do đó, việc kê đơn phối hợp các thuốc này chỉ dành cho các bệnh nhân không thể có lựa chọn nào khác.

Các nghiên cứu quan sát chứng minh rằng sử dụng đồng thời opioid giảm đau với các thuốc benzodiazepine làm tăng nguy cơ tử vong liên quan đến thuốc so với chỉ sử dụng opioid giảm đau đơn độc. Do có đặc tính dược lý tương tự nhau, sử dụng đồng thời opioid giảm đau với các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương khác cũng có thể gây ra các nguy cơ tương tự.

Nếu phải quyết định kê đơn một thuốc benzodiazepine hoặc các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương khác đồng thời với một thuốc giảm đau opioid, cần chỉ định những liều thấp nhất có hiệu quả và thời gian sử dụng đồng thời ngắn nhất. Trên các bệnh nhân đang sử dụng một thuốc giảm đau opioid, liều khởi đầu của các thuốc benzodiazepine hoặc các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương khác cần thấp hơn so với liều khởi đầu chỉ định khi bệnh nhân không dùng đồng thời thuốc opioid, và chỉnh liều dựa trên đáp ứng lâm sàng. Theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu và triệu chứng suy hô hấp và an thần trên bệnh nhân.

Khuyên bệnh nhân và cả người chăm sóc về nguy cơ suy hô hấp và an thần khi sử dụng Oxycontin cùng với các thuốc benzodiazepine hoặc các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương khác (bao gồm cả rượu và ma túy). Khuyên bệnh nhân không nên lái xe hay vận hành máy móc nặng cho đến khi xác định được ảnh hưởng của việc sử dụng đồng thời với các thuốc benzodiazepine hay các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương khác. Sàng lọc bệnh nhân có nguy cơ sử dụng sai, bao gồm lạm dụng thuốc, dùng thuốc sai mục đích, và cảnh báo họ về nguy cơ Quá liều hoặc tử vong liên quan đến sử dụng thêm các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương, bao gồm cả rượu và ma túy.

Suy hô hấp đe dọa tính mạng ở bệnh nhân có bệnh phổi mạn tính, ở người cao tuổi, bệnh nhân suy nhược toàn thân, và yếu sức

Chống chỉ định dùng Oxycontin trên bệnh nhân hen phế quản cấp tính hoặc nặng mà không thiết lập hệ thống theo dõi hoặc không có các thiết bị hồi sức.

Bệnh nhân có bệnh phổi mạn tính: Các bệnh nhân tắc nghẽn đường thở mạn tính nghiêm trọng hoặc bệnh tâm phế mạn tính, bệnh nhân với thể tích hô hấp dự trữ đã giảm đáng kể, thiếu oxy máu, tăng carbon dioxide máu, đã có suy hô hấp trước đó, được điều trị với Oxycontin có gia tăng nguy cơ suy giảm chức năng hô hấp bao gồm chứng ngưng thở, kể cả ở liều khuyến cáo của Oxycontin.

Bệnh nhân cao tuổi, suy nhược toàn thân và yếu sức: Suy hô hấp đe dọa tính mạng có nhiều khả năng xảy ra ở người cao tuổi, bệnh nhân bị suy nhược, hoặc yếu sức do bệnh nhân có thể có thay đổi về dược động học hoặc về độ thanh thải so với các bệnh nhân trẻ hơn, khỏe mạnh hơn. Cần theo dõi chặt chẽ những bệnh nhân này, đặc biệt là khi bắt đầu sử dụng, khi điều chỉnh liều Oxycontin và khi Oxycontin được sử dụng đồng thời với các thuốc khác làm ức chế hô hấp.

Suy thượng thận

Các trường hợp suy thượng thận đã được báo cáo khi sử dụng opioid, thường gặp hơn ở bệnh nhân đã dùng opioid hơn một tháng. Biểu hiện suy thượng thận bao gồm các triệu chứng không đặc hiệu và dấu hiệu như buồn nôn, nôn, chán ăn, mệt mỏi, suy nhược, chóng mặt và huyết áp thấp. Nếu nghi ngờ suy thượng thận, làm các xét nghiệm chẩn đoán xác định càng sớm càng tốt. Nếu đã chẩn đoán xác định suy thượng thận, điều trị bằng corticosteroid với liều thay thế sinh lý. Giảm dần việc sử dụng opioid của bệnh nhân để chức năng thượng thận phục hồi và tiếp tục điều trị bằng corticosteroid cho đến khi chức năng thượng thận đã được phục hồi. Có thể thử sử dụng các opioid khác vì đã có vài trường hợp được báo cáo sử dụng opioid khác nhau và không thấy xuất hiện suy thượng thận trở lại. Dữ liệu hiện nay không cho phép xác định cụ thể opioid nào có liên quan nhiều hơn đến suy chức năng thượng thận.

Hạ huyết áp nặng

Oxycontin có thể gây tụt huyết áp nghiêm trọng bao gồm hạ huyết áp thế đứng và ngất ở những bệnh nhân cấp cứu. Nguy cơ  này gia tăng ở những bệnh nhân mà khả năng duy trì huyết áp đã bị ảnh hưởng bởi giảm thể tích máu hoặc dùng đồng thời với một số thuốc ức chế thần kinh trung ương (ví dụ, các phenothiazin hoặc thuốc gây mê toàn thân). Theo dõi những bệnh nhân này về các dấu hiệu giảm huyết áp khi bắt đầu dùng hoặc khi điều chỉnh liều Oxycontin. Ở những bệnh nhân bị sốc tuần hoàn, Oxycontin có thể gây giãn mạch, điều này có thể làm giảm hơn nữa cung lượng tim và huyết áp. Tránh sử dụng Oxycontin ở bệnh nhân bị sốc tuần hoàn.

Nguy cơ sử dụng ở bệnh nhân bị chấn thương đầu, tăng áp lực nội sọ, có khối u não hoặc suy giảm ý thức

Giám sát về các dấu hiệu an thần và suy hô hấp ở những bệnh nhân dùng Oxycontin mà có thể nhạy cảm với các tác động trên nội sọ do ứ đọng CO2 (ví dụ, những bệnh nhân có bằng chứng của tăng áp lực nội sọ hoặc các khối u não), đặc biệt khi bắt đầu điều trị với Oxycontin. Oxycontin có thể làm giảm hô hấp, làm ứ đọng CO2 và điều này có thể làm tăng hơn nữa áp lực nội sọ. Opioid cũng có thể che khuất các tiến triển lâm sàng ở bệnh nhân bị chấn thương đầu.

Tránh việc sử dụng Oxycontin ở những bệnh nhân bị suy giảm ý thức hoặc hôn mê.

Khó nuốt và nguy cơ tắc nghẽn ở bệnh nhân có nguy cơ có lòng ống tiêu hóa nhỏ

Đã có các báo cáo về tình trạng khó nuốt viên nén Oxycontin. Các báo cáo này bao gồm hóc, nghẹn, trớ ra và mắc kẹt viên thuốc ở họng. Hướng dẫn bệnh nhân không ngâm trước, liếm hoặc làm ướt viên nén Oxycontin trước khi đặt trong miệng, và mỗi lần chỉ uống một viên với đủ nước để đảm bảo nuốt hết ngay lập tức sau khi đặt thuốc trong miệng.

Đã có báo cáo hiếm gặp về một số trường hợp tắc ruột, và bộc phát viêm túi thừa, một số trường hợp trong đó đã được yêu cầu can thiệp y tế để loại bỏ các viên nén. Bệnh nhân có kèm theo các bệnh lý rối loạn tiêu hóa như ung thư thực quản hoặc ung thư đại tràng có lòng ống tiêu hóa hẹp có nguy cơ phát triển các biến chứng này. Xem xét việc sử dụng thuốc giảm đau thay thế ở những bệnh nhân khó nuốt và bệnh nhân có nguy cơ có các rối loạn tiêu hóa dẫn đến lòng ống tiêu hóa hẹp.

Sử dụng ở bệnh nhân có bệnh lý đường tiêu hóa

Oxycontin chống chỉ định ở bệnh nhân tắc nghẽn đường tiêu hóa, kể cả liệt ruột. Oxycodone trong Oxycontin có thể gây co thắt cơ vòng Oddi. Theo dõi về sự gia tăng các triệu chứng ở những bệnh nhân bị bệnh lý đường mật, bao gồm cả viêm tụy cấp. Opioid có thể gây tăng amylase huyết thanh.

Tăng nguy cơ động kinh trên bệnh nhân bị rối loạn co giật hoặc động kinh

Oxycodone trong Oxycontin có thể tăng tần suất động kinh ở những bệnh nhân bị bệnh động kinh, và có thể làm tăng tần suất động kinh xảy ra trong một số tình huống lâm sàng khác liên quan đến động kinh. Theo dõi bệnh nhân có tiền sử động kinh về việc giảm kiểm soát tình trạng động kinh khi điều trị Oxycontin.

Hội chứng ngưng thuốc

Tránh sử dụng các thuốc giảm đau có tác dụng vừa chủ vận vừa đối kháng (ví dụ pentazocin, nalbuphin và butorphanol) hoặc thuốc giảm đau chủ vận từng phần (buprenorphine) ở những bệnh nhân đã dùng hoặc đang dùng một đợt điều trị với thuốc giảm đau chủ vận hoàn toàn các thụ thể opioid, kể cả Oxycontin. Ở những bệnh nhân này, các thuốc giảm đau có tác dụng vừa chủ vận vừa đối kháng hoặc chủ vận từng phần có thể làm giảm tác dụng giảm đau và/hoặc có thể khởi phát các triệu chứng ngừng thuốc.

Khi ngừng sử dụng Oxycontin, cần giảm liều từ từ. Không được ngưng Oxycontin một cách đột ngột.

Giám sát bằng xét nghiệm

Không phải tất cả các xét nghiệm nước tiểu tìm các chất “opoid” hoặc các “opiate” đều phát hiện được oxycodone một cách tin cậy, đặc biệt là các xét nghiệm đơn giản. Hơn nữa, nhiều phòng xét nghiệm sẽ báo cáo nồng độ thuốc trong nước tiểu thấp hơn giá trị ngưỡng nên cho kết quả “âm tính”. Do vậy, nếu cân nhắc xét nghiệm oxycodone nước tiểu để kiểm soát trên lâm sàng cho một bệnh nhân riêng lẻ nào đó, cần đảm bảo độ nhạy và độ đặc hiệu của phương pháp định lượng là phù hợp và cân nhắc các giới hạn của xét nghiệm được sử dụng để phiên giải kết quả.

Ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy móc

Oxycontin có thể làm suy giảm khả năng hoạt động thể chất và tinh thần cần thiết để thực hiện các hoạt động có khả năng gây nguy hiểm như lái xe hoặc vận hành máy móc. Cảnh báo bệnh nhân không lái xe hoặc vận hành những máy móc nguy hiểm trừ khi họ dung nạp với các tác dụng của Oxycontin và biết họ sẽ phản ứng với thuốc như thế nào.

Quá liều

Biểu hiện trên lâm sàng

Quá liều cấp tính với Oxycontin có thể biểu hiện bằng suy hô hấp, tình trạng buồn ngủ tiến triển đến bất tỉnh hoặc hôn mê, yếu cơ vân, da lạnh và ẩm ướt, đồng tử co lại, và trong một số trường hợp, phù phổi, chậm nhịp tim, hạ huyết áp, tắc nghẽn đường thở một phần hoặc hoàn toàn, tiếng ngáy không điển hình và tử vong. Có thể quan sát thấy giãn đồng tử đáng kể chứ không phải là co đồng tử do tình trạng thiếu oxy nghiêm trọng trong trường hợp quá liều.

Điều trị quá liều

Trong trường hợp Quá liều, điều trị ưu tiên là tái thiết lập một đường thở mở và được bảo vệ và áp dụng thông khí hỗ trợ hoặc có kiểm soát nếu cần thiết. Sử dụng các biện pháp hỗ trợ khác (bao gồm oxy, thuốc co mạch) để điều trị sốc tuần hoàn và phù phổi như được chỉ định. Ngừng tim hoặc loạn nhịp tim sẽ yêu cầu các kỹ thuật hỗ trợ sinh tồn tiên tiến.

Các thuốc đối kháng opioid, naloxon hoặc nalmefen, là thuốc giải độc đặc hiệu cho tình trạng suy hô hấp do dùng Quá liều các opioid. Không nên dùng thuốc đối kháng opioid trong trường hợp không có suy hô hấp hoặc tuần hoàn có ý nghĩa lâm sàng do dùng Quá liều oxycodone. Các thuốc này nên được sử dụng một cách thận trọng trên những người được biết, hoặc nghi ngờ bị phụ thuộc thể chất vào Oxycontin. Trong trường hợp này, một sự đảo ngược đột ngột hoặc toàn bộ tác dụng của opioid có thể thúc đẩy một hội chứng cai nghiện cấp tính.

Do thời gian của sự đảo ngược được dự kiến sẽ ít hơn so với thời gian tác dụng của oxycodone trong viên nén Oxycontin, cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận cho đến khi khả năng tự thở được tái lập một cách đáng tin cậy. Oxycontin sẽ tiếp tục giải phóng oxycodone và bổ sung thêm vào tải lượng oxycodone trong 24 đến 48 giờ hoặc dài hơn kể từ sau khi uống thuốc, do vậy đòi hỏi phải theo dõi kéo dài. Nếu đáp ứng với thuốc đối kháng opioid là chưa đủ hoặc không bền vững, cần sử dụng thuốc đối kháng bổ sung theo hướng dẫn tại thông tin kê đơn của thuốc đó.

Trong từng cá thể lệ thuộc thể chất vào các thuốc opioid, sử dụng liều thông thường của chất đối kháng sẽ khởi phát một hội chứng ngừng thuốc cấp tính. Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng khi ngừng thuốc sẽ phụ thuộc vào mức độ lệ thuộc về thể chất và liều lượng của các chất thuốc kháng được sử dụng. Nếu có quyết định điều trị tình trạng suy hô hấp nghiêm trọng ở bệnh nhân lệ thuộc về thể chất, nên bắt đầu sử dụng một thuốc đối kháng cẩn thận và điều chỉnh liều với mức liều nhỏ hơn so với liều thông thường của các thuốc đối kháng.

Chống chỉ định

Oxycontin chống chỉ định đối với những bệnh nhân:

Suy hô hấp đáng kể.

Hen phế quản cấp tính hoặc nghiêm trọng trong tình trạng không có giám sát hoặc trong trường hợp không có thiết bị hồi sức cấp cứu.

Được xác định hoặc nghi ngờ tắc nghẽn đường tiêu hóa, kể cả liệt ruột.

Quá mẫn cảm (ví dụ, phản ứng phản vệ) đối với oxycodone.

Tăng CO2 máu.

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú

Phụ nữ có thai

Cân nhắc lâm sàng.

Phản ứng phụ ở thai nhi/ trẻ sơ sinh

Dùng kéo dài thuốc giảm đau opioid trong khi mang thai cho các mục đích y khoa hoặc không phải y khoa có thể dẫn đến sự lệ thuộc về thể chất ở trẻ sơ sinh và hội chứng ngừng thuốc ở trẻ sơ sinh ngay sau khi sinh. Theo dõi các triệu chứng của hội chứng ngừng thuốc ở trẻ sơ sinh như ăn kém, tiêu chảy, khó chịu, run, co cứng, và co giật, và xử trí một cách phù hợp.

Phân loại thuốc cho phụ nữ có thai: nhóm C

Chưa có nghiên cứu đầy đủ và có đối chứng tốt ở phụ nữ mang thai. Oxycontin chỉ nên sử dụng khi đã cân nhắc về lợi ích và nguy cơ cho thai nhi.

Tác dụng của oxycodone trên sự sinh sản ở người chưa được nghiên cứu đầy đủ. Các nghiên cứu của  oxycodone hydrochloride liều đường uống trên chuột với liều lên đến 8 mg/kg/ngày và trên thỏ với liều lên đến 125 mg/kg/ngày, tương đương với lần lượt là 0,5 và 15 lần mức liều 160 mg/ngày trên người trưởng thành tính trên mg/m2, không cho thấy bằng chứng về tác hại cho thai nhi do oxycodone. Trong một nghiên cứu độc tính trước và sau khi sinh, chuột cái dùng oxycodone trong thời gian mang thai và cho con bú. Không có tác dụng lâu dài trên sự phát triển hoặc sinh sản ở chuột con.

Các tác dụng khác ngoài tác dụng gây quái thai

Oxycodone hydrochloride được dùng đường uống cho chuột cái trong thời gian mang thai và cho con bú trong một nghiên cứu độc tính trước và sau khi sinh. Không có những ảnh hưởng liên quan đến thuốc trên hoạt động sinh sản ở những con chuột này hoặc bất kỳ tác động lâu dài trên sự phát triển hoặc sinh sản ở chuột con sinh ra từ những con chuột này. Đã thấy hiện tượng giảm thể trọng trong quá trình bú sữa mẹ và thời gian đầu sau cai sữa ở các chuột con được nuôi bú bởi những chuột mẹ được sử dụng liều cao nhất (6 mg/kg/ngày, tương đương với khoảng 0,4 lần một liều 160 mg/ngày ở người trưởng thành, tính theo mg/m2). Tuy nhiên, trọng lượng cơ thể của chuột con đã phục hồi.

Chuyển dạ và quá trình sinh đẻ

Opioid qua nhau thai và có thể gây ra suy hô hấp ở trẻ sơ sinh. Oxycontin không được khuyến cáo sử dụng ở phụ nữ ngay trước giai đoạn chuyển dạ, khi sử dụng thuốc giảm đau tác dụng ngắn hoặc kỹ thuật giảm đau khác phù hợp hơn. Thuốc giảm đau opioid có thể kéo dài thời gian chuyển dạ thông qua những tác động tạm thời làm giảm sức mạnh, thời gian và tần suất các cơn co thắt tử cung. Tuy nhiên tác dụng này là không ổn định và có thể được bù lại bằng việc tăng tốc độ giãn nở cổ tử cung, mà tác dụng này có xu hướng rút ngắn thời gian chuyển dạ.

Phụ nữ cho con bú

Đã phát hiện oxycodone trong sữa mẹ. Hướng dẫn bệnh nhân không thực hiện cho con bú trong khi điều trị bằng Oxycontin. Không bắt đầu điều trị với Oxycontin trong khi cho con bú vì khả năng gây an thần hoặc suy hô hấp ở trẻ sơ sinh.

Các dấu hiệu ngừng thuốc có thể xảy ra ở bé bú mẹ khi mẹ ngừng thuốc giảm đau opioid, hoặc khi ngừng cho con bú.

Tương tác

Các thuốc ức chế thần kinh trung ương

Sử dụng đồng thời Oxycontin và các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương (CNS) bao gồm cả thuốc an thần hoặc thuốc ngủ, thuốc bình thần, thuốc mê toàn thân, phenothiazin, các opioid khác và rượu có thể làm tăng nguy cơ suy hô hấp, an thần sâu, hôn mê hoặc tử vong. Theo dõi bệnh nhân sử dụng các thuốc ức chế thần kinh trung ương và Oxycontin về các dấu hiệu suy hô hấp, an thần và hạ huyết áp. Khi dự tính điều trị kết hợp với bất kỳ thuốc nào ở trên, liều của một hoặc cả hai thuốc nên được giảm.

Các thuốc giãn cơ

Oxycodone có thể tăng cường tác động ức chế thần kinh cơ của thuốc làm giãn cơ xương thật sự và làm gia tăng suy hô hấp. Theo dõi bệnh nhân sử dụng các thuốc giãn cơ và Oxycontin về các dấu hiệu suy hô hấp có thể nặng hơn.

Các thuốc ảnh hưởng đến enzym cytochrome P450

Các thuốc ức chế CYP3A4 và 2D6

Do enzyme CYP3A4 đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa của oxycodone, thuốc ức chế hoạt tính của CYP3A4 có thể là nguyên nhân làm giảm độ thanh thải của oxycodone dẫn đến làm tăng nồng độ oxycodone huyết tương và dẫn đến tăng hoặc kéo dài tác dụng của opioid. Tác dụng này rõ rệt hơn khi sử dụng đồng thời với thuốc ức chế CYP2D6 và 3Y4. Nếu sử dụng phối hợp với Oxycontin là cần thiết, giám sát bệnh nhân về hô hấp và an thần thường xuyên và cân nhắc điều chỉnh liều cho đến khi đạt được tác dụng ổn định của thuốc.

Các thuốc gây cảm ứng của CYP3A4

Thuốc gây cảm ứng CYP450 3A4 có thể gây cảm ứng chuyển hóa của oxycodone và, do đó, có thể gây tăng thanh thải của thuốc mà có thể dẫn đến giảm nồng độ trong huyết tương của oxycodone, thiếu hiệu quả hoặc có thể, xuất hiện hội chứng cai thuốc trên bệnh nhân đã có phụ thuộc thể chất với oxycodone. Nếu cần sử dụng phối hợp với Oxycontin, và xem xét điều chỉnh liều cho đến khi đạt được tác dụng ổn định của thuốc.

Sau khi ngừng điều trị một chất cảm ứng CYP3A4, giống như những tác động của sự suy giảm cảm ứng, nồng độ oxycodone trong huyết tương sẽ tăng có thể làm tăng hoặc kéo dài cả hai tác dụng điều trị và tác dụng phụ và có thể gây suy hô hấp nghiêm trọng.

Các thuốc giảm đau có tác dụng vừa chủ vận vừa đối kháng hoặc chủ vận từng phần opioid

Các thuốc giảm đau có tác dụng vừa chủ vận vừa đối kháng (ví dụ, pentazocin, nalbuphin, và butorphanol) hoặc thuốc giảm đau chủ vận đơn thuần (buprenorphin) có thể làm giảm tác dụng giảm đau của oxycodone hoặc thúc đẩy các triệu chứng cai thuốc ở những bệnh nhân sử dụng Oxycontin.

Các thuốc lợi tiểu

Các opioid có thể làm giảm hiệu quả của các thuốc lợi tiểu bằng cách làm giải phóng hormon chống bài niệu. Các opioid cũng có thể gây ra bí tiểu cấp tính bằng cách làm co thắt cơ vòng của bàng quang, đặc biệt là ở nam giới bị phì đại tuyến tiền liệt.

Các thuốc kháng cholinergic

Các thuốc kháng cholinergic hoặc các thuốc khác có hoạt tính kháng cholinergic khi dùng đồng thời với thuốc giảm đau opioid có thể dẫn đến tăng nguy cơ bí tiểu và/hoặc táo bón nặng, có thể dẫn đến liệt ruột. Theo dõi bệnh nhân về các dấu hiệu bí tiểu hoặc giảm nhu động dạ dày khi Oxycontin được sử dụng đồng thời với các thuốc kháng cholinergic.

Tương kỵ

Không có các nghiên cứu về tính tương kỵ của Oxycontin.

Tác dụng ngoại ý

Các phản ứng có hại nghiêm trọng sau đây đã được mô tả trong một số phần khác của tờ hướng dẫn sử dụng thuốc:

Lệ thuộc, lạm dụng, và dùng thuốc không đúng mục đích.

Suy hô hấp đe dọa tính mạng.

Hội chứng cai thuốc ở trẻ sơ sinh.

Tương tác với các thuốc ức chế thần kinh trung ương khác.

Các tác dụng hạ huyết áp.

Các tác dụng trên hệ tiêu hóa.

Co giật.

Phản ứng có hại trong các thử nghiệm lâm sàng

Do các thử nghiệm lâm sàng được thực hiện trong các điều kiện rất khác nhau, tỷ lệ các tác dụng không mong muốn được quan sát của một thuốc không thể so sánh trực tiếp với tỷ lệ trong các thử nghiệm lâm sàng của một thuốc khác và có thể không phản ánh tỷ lệ được quan sát trong thực hành.

Tính an toàn của Oxycontin được đánh giá trong các thử nghiệm lâm sàng mù đôi trên 713 bệnh nhân đau từ mức trung bình đến nặng với rất nhiều nguyên nhân gây bệnh khác nhau. Trong các nghiên cứu nhãn mở trên đau do ung thư, 187 bệnh nhân dùng Oxycontin với tổng liều hàng ngày dao động từ 20 đến 640 mg/ngày. Tổng liều hàng ngày trung bình là khoảng 105 mg/ngày.

Oxycontin có thể làm tăng nguy cơ phản ứng có hại nghiêm trọng như đã được quan sát thấy với các thuốc giảm đau nhóm opioid khác bao gồm: ức chế hô hấp, ngưng thở, ngừng hô hấp, ức chế tuần hoàn, hoặc sốc.

Các tác dụng không mong muốn phổ biến nhất (>5%) đã được báo cáo của bệnh nhân trong các thử nghiệm lâm sàng của Oxycontin so sánh với giả dược.

Trong các thử nghiệm lâm sàng, các phản ứng có hại sau đây đã được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị bằng Oxycontin. Tác dụng không mong muốn được phân loại theo tỷ lệ xảy ra các tác dụng đó. Các tần suất dưới đây là cơ sở để đánh giá các tác dụng không mong muốn: Rất thường gặp (ADR ≥ 1/10), Thường gặp (1/100 ≤ ADR < 1/10), Ít gặp (1/1000 ≤ ADR < 1/100), Hiếm gặp (1/1000 ≤ ADR < 1/10000), Rất hiếm gặp (ADR < 1/10000), Chưa biết (không đánh giá được dựa trên dữ liệu sẵn có).

Phản ứng có hại sau lưu hành

Các phản ứng có hại sau đây đã được xác định trong quá trình sử dụng sau lưu hành của oxycodone viên nén giải phóng kiểm soát: lạm dụng, nghiện, vô kinh, ứ mật, tử vong, sâu răng, tăng men gan, tăng cảm giác đau, hạ natri máu, tắc ruột, tăng trương lực cơ xương, Quá liều, đánh trống ngực (trong tình trạng ngừng thuốc), động kinh, hội chứng tiết hormon chống bài niệu không phù hợp, và nổi mề đay.

Phản ứng phản vệ đã được báo cáo với các thành phần có trong Oxycontin. Tư vấn cho bệnh nhân làm thế nào để nhận ra một phản ứng như vậy và khi nào cần tìm sự chăm sóc y tế.

Ngoài các biến cố đã được được liệt kê ở trên, các phản ứng sau đây cũng được báo cáo, có khả năng do viên nén trương và ngậm nước: hóc, nghẹn, trớ, viên nén bị mắc kẹt trong cổ họng và khó nuốt viên thuốc.

Bảo quản

Bảo quản ở nhiệt độ không quá 30oC.

Trình bày và đóng gói

Viên nén giải phóng kéo dài: hộp 1 vỉ x 14 viên, hộp 2 vỉ x 14 viên.

Bài viết cùng chuyên mục

Obeticholic acid

Obeticholic acid là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị viêm đường mật nguyên phát ở người lớn.

Ocrelizumab

Ocrelizumab là thuốc theo toa được sử dụng cho người lớn bị bệnh đa xơ cứng tái phát hoặc tiến triển nguyên phát.

Odevixibat

Odevixibat là một loại thuốc theo toa dùng để điều trị ngứa ở bệnh nhân ứ mật trong gan tiến triển trong gia đình (PFIC).

Ofatumumab

Ofatumumab là một loại thuốc kê đơn dành cho người lớn dùng để điều trị bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính (CLL).

Ofloxacin nhãn khoa

Ofloxacin nhãn khoa là thuốc kê đơn dùng để điều trị viêm kết mạc do vi khuẩn và loét giác mạc.

Ofloxacin Otic

Ofloxacin Otic là thuốc kê đơn dùng để điều trị các triệu chứng nhiễm trùng ống tai, nhiễm trùng tai trong và nhiễm trùng gây thủng màng nhĩ (viêm tai giữa mủ mãn tính có màng nhĩ đục lỗ).

Olanzapine

Olanzapine điều trị một số tình trạng tâm thần/tâm trạng nhất định (chẳng hạn như tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực), cũng có thể được sử dụng kết hợp với các loại thuốc khác để điều trị trầm cảm.

Olanzapine-Samidorphan

Olanzapine -Samidorphan là thuốc kết hợp dùng để điều trị bệnh tâm thần phân liệt và  rối loạn lưỡng cực I  ở người lớn.

Oliceridine

Oliceridine là một loại thuốc theo toa dùng cho người lớn để kiểm soát cơn đau cấp tính đủ nghiêm trọng đến mức cần dùng thuốc giảm đau opioid tiêm tĩnh mạch và đối với những người không có phương pháp điều trị thay thế phù hợp.

Olipudase Alfa

Olipudase Alfa là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị các biểu hiện ngoài hệ thần kinh trung ương do thiếu axit sphingomyelinase (ASMD).

Olmesartan-Amlodipine-Hydrochlorothiazide

Nhóm thuốc: Thuốc lợi tiểu ARB/CCB, thuốc chẹn kênh canxi, Non-dihydropyridine. Olmesartan-Amlodipine-Hydrochlorothiazide là thuốc kết hợp dùng để điều trị huyết áp cao.

Olmesartan

Olmesartan là thuốc kê đơn dùng để điều trị tăng huyết áp. Tên biệt dược: Benicar.

Olopatadine - Mometasone xịt múi

Olopatadine-Mometasone xịt mũi là thuốc kê đơn dùng để điều trị các triệu chứng viêm mũi dị ứng theo mùa ở bệnh nhân người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên.

Olopatadine nhỏ mắt

Thuốc nhỏ mắt Olopatadine là thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn dùng để điều trị ngứa mắt do viêm kết mạc dị ứng.

Olsalazine

Nhóm thuốc: Dẫn xuất axit 5-Aminosalicylic. Olsalazine là thuốc kê đơn dùng để điều trị viêm loét đại tràng.

Olutasidenib

Olutasidenib là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính tái phát hoặc khó chữa với đột biến IDH1 đã được xác nhận (mIDH1+ R/R AML).

Omadacycline

Omadacycline là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị viêm phổi do vi khuẩn mắc phải tại cộng đồng và nhiễm trùng cấu trúc da do vi khuẩn.

Omalizumab

Omalizumab là một loại thuốc kê đơn dùng để điều trị bệnh hen suyễn, mày đay vô căn mãn tính và polyp mũi.

Omaveloxolone

Omaveloxolone là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị chứng mất điều hòa Friedreich (thất điều).

Omega 3 axit béo

Omega 3 axit béo là một chất điều hòa lipid được sử dụng như một chất hỗ trợ cho chế độ ăn kiêng để giảm mức chất béo trung tính (TG) ở bệnh nhân trưởng thành bị tăng cholesterol máu nặng (500 mg/dL hoặc cao hơn).

Omega 3 axit carboxylic

Omega 3 axit carboxylic là một chất điều hòa lipid được sử dụng như một chất bổ sung cho chế độ ăn kiêng để giảm mức chất béo trung tính (TG) ở bệnh nhân trưởng thành bị tăng cholesterol máu nặng (> 500 mg/dL).

Omega 3 đa xit béo không bão hòa

Omega 3 đa xit béo không bão hòa là một loại thuốc theo toa dùng để giảm mức chất béo trung tính trong máu.

Omeprazole-Amoxicillin-Clarithromycin

Omeprazole-Amoxicillin-Clarithromycin là thuốc kết hợp được sử dụng để điều trị loét tá tràng.

Omeprazole/natri bicarbonate

Omeprazole và natri bicarbonate là một loại thuốc kê đơn kết hợp dùng để điều trị chứng ợ nóng và các triệu chứng khác của bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở người lớn.

Omidenepag Isopropyl nhỏ mắt

Omidenepag Isopropyl nhỏ mắt là thuốc theo toa dùng cho người lớn để giảm áp lực nội nhãn tăng cao (IOP) ở bệnh nhân mắc bệnh tăng nhãn áp góc mở.

Omidubicel

Omidubicel là thuốc điều trị các khối u ác tính về huyết học ở người lớn được lên kế hoạch ghép máu dây rốn sau điều trị sẹo lồi, để giảm thời gian phục hồi bạch cầu trung tính và tỷ lệ nhiễm trùng.

Onasemnogene Abeparvovec

Onasemnogene Abeparvovec là thuốc kê đơn dùng để điều trị teo cơ cột sống ở trẻ em trên 2 tuổi.

Ondansetron

Ondansetron được sử dụng một mình hoặc kết hợp với các loại thuốc khác để ngăn ngừa buồn nôn và nôn do điều trị bằng thuốc ung thư (hóa trị), xạ trị hoặc thuốc ngủ trước khi phẫu thuật.

Opicapone

Opicapone là một loại thuốc kê đơn được sử dụng như một thuốc bổ trợ cho levodopa/carbidopa để giảm các đợt bệnh ở bệnh nhân mắc bệnh Parkinson.

Oritavancin

Nhóm thuốc: Glycopeptide. Oritavancin là một loại thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị nhiễm trùng da và cấu trúc da cấp tính do vi khuẩn.

Orlistat

Orlistat là một chất ức chế lipase đường tiêu hóa, hoạt động bằng cách ngăn chặn sự hấp thu 25% chất béo trong bữa ăn và được sử dụng để giảm cân ở người lớn thừa cân.

Orphenadrine

Nhóm thuốc: Thuốc giãn cơ. Orphenadrine là một loại thuốc kê đơn dùng để điều trị chứng đau và co thắt cơ ở người lớn.

Oseltamivir

Thuốc ức chế Neuraminidase. Oseltamivir là thuốc kê đơn được sử dụng để dự phòng và điều trị Cúm A và Cúm B.

Osilodrostat

Osilodrostat là thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị bệnh Cushing ở người lớn mà phẫu thuật tuyến yên không phải là một lựa chọn hoặc chưa được chữa khỏi.

Osimertinib

Osimertinib được sử dụng để điều trị bước đầu cho bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ di căn (NSCLC) có khối u có thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) exon 19 xóa hoặc exon 21 đột biến L858R.

Oteseconazol

Oteseconazol là một loại thuốc kê đơn dùng cho người lớn được sử dụng để điều trị bệnh nấm candida âm hộ ở những phụ nữ không có khả năng sinh sản.

Oxandrolone

Oxandrolone được chỉ định là liệu pháp bổ trợ để thúc đẩy tăng cân sau khi giảm cân sau phẫu thuật rộng, nhiễm trùng mãn tính hoặc chấn thương nặng và ở một số bệnh nhân không có lý do sinh lý bệnh rõ ràng không tăng hoặc duy trì cân nặng bình thường.

Oxaprozin

Tên thương hiệu: Daypro Alta, Daypro. Oxaprozin là thuốc kê đơn dùng để điều trị viêm xương khớp và viêm khớp dạng thấp.

Oxazepam

Tên thương hiệu: Serax. Oxazepam là thuốc kê đơn dùng để điều trị rối loạn lo âu và các triệu chứng cai rượu.

Oxybutynin

Oxybutynin được chỉ định để làm giảm các triệu chứng mất ổn định bàng quang liên quan đến việc đi tiểu ở những bệnh nhân bàng quang thần kinh không bị ức chế hoặc bàng quang thần kinh phản xạ

Oxycodone

Oxycodone là một loại thuốc giảm đau thuộc nhóm opioid được sử dụng cho các cơn đau từ trung bình đến nặng và đau nặng mãn tính, cần điều trị bằng opioid hàng ngày, suốt ngày đêm khi các lựa chọn điều trị khác không đủ. 

Oxycodone-acetaminophen

Oxycodone-acetaminophen là thuốc kê đơn dùng để kiểm soát cơn đau từ trung bình đến nặng. Tên thương hiệu: Percocet, Tylox, Primlev, Roxicet, Endocet và Xartemis XR .

Oxycodone-Aspirin

Oxycodone-Aspirin là một loại thuốc kê đơn kết hợp được sử dụng để giảm đau từ trung bình đến nặng. Tên thương hiệu: Percodan, Endodan, Oxycodan.

Oxycodone-Naloxone

Thuốc giảm đau, thuốc kết hợp opioid, thuốc đối kháng opioid. Oxycodone-Naloxone là thuốc kê đơn dùng để giảm đau mãn tính.

Oxymetazoline bôi tại chỗ

Thuốc bôi Oxymetazoline được sử dụng để điều trị tại chỗ chứng ban đỏ dai dẳng ở mặt liên quan đến bệnh rosacea ở người lớn.

Oxymetazoline nhãn khoa

Oxymetazoline nhãn khoa là một sản phẩm không kê đơn (OTC) được sử dụng để làm giảm tạm thời chứng đỏ mắt do kích ứng và để giảm cảm giác nóng rát hoặc kích ứng do khô mắt.

Oxymetazoline xịt mũi

Oxymetazoline xịt mũi là một sản phẩm không kê đơn (OTC) được sử dụng để giảm nghẹt mũi tạm thời.

Oxymetholone

Oxymetholone là một loại thuốc theo toa dùng để điều trị các triệu chứng thiếu máu do sản xuất hồng cầu không đủ.

Oxymorphone

Oxymorphone là thuốc giảm đau gây mê được sử dụng để điều trị cơn đau từ trung bình đến nặng. Dạng phóng thích kéo dài dùng để điều trị cơn đau suốt ngày đêm.

Ozanimod

Ozanimod là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị bệnh đa xơ cứng và viêm loét đại tràng ở người lớn.

Ozenoxacin bôi tại chỗ

Ozenoxacin bôi tại chỗ được dùng điều trị bệnh chốc lở do Staphylococcus Aureus (S. Aureus) hoặc Streptococcus Pyogenes (S. Pyogenes) ở người lớn và trẻ em từ 2 tháng tuổi trở lên.

Quincef: thuốc kháng sinh nhóm beta lactam

Thuốc được chỉ định điều trị những nhiễm trùng do vi khuẩn nhạy cảm gây ra bệnh đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới, đường tiết niệu, da và mô mềm: bệnh lậu, viêm niệu đạo cấp và viêm cổ tử cung, cefuroxime axetil cũng được uống để điều trị bệnh Lyme thời kỳ đầu.

Ozurdex: thuốc điều trị phù hoàng điểm và điều trị viêm màng bồ đào

Ozurdex được chỉ định để điều trị phù hoàng điểm do tắc nhánh tĩnh mạch võng mạc hoặc tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc, điều trị viêm màng bồ đào không do nhiễm trùng ảnh hưởng đến phần sau của mắt, và điều trị phù hoàng điểm do đái tháo đường.

Oztis: thuốc điều trị triệu chứng viêm khớp gối nhẹ và trung bình

Oztis (Glucosamine sulfate và Chondroitin sulfate) đã được chứng minh là an toàn khi sử dụng trong liều chỉ định. Chưa có báo cáo nào trên lâm sàng về tác dụng phụ, nhưng bệnh nhân bị tiểu đường thì nên theo sự hướng dẫn của bác sĩ khi uống thuốc hàng ngày.

OxyNeo: thuốc giảm đau cho bệnh nhân ung thư và sau khi phẫu thuật

Oxycodone là một chất chủ vận opioid hoàn toàn với đặc tính không đối kháng. Thuốc có ái lực cao với các thụ thể opiate kappa, muy và delta trên não và tủy sống. Tác dụng trị liệu chủ yếu là giảm đau, giải lo âu và an thần.

Ossopan: thuốc điều trị thiếu can xi khi đang lớn, có thai và cho con bú

Điều trị trong trường hợp thiếu can xi, đặc biệt khi đang lớn, có thai và cho con bú. Điều trị hỗ trợ các bệnh loãng xương (ở người già, sau mãn kinh, liệu pháp corticosteroid, hoạt động trở lại sau bất động lâu).

Orgametril: thuốc ức chế sự rụng trứng và kinh nguyệt

Nên dùng viên nén Orgametril bằng đường uống với nước hoặc chất lỏng khác. Nếu quên uống thuốc thì nên uống ngay khi nhớ ra, trừ khi quên uống quá 24 giờ. Ngày đầu tiên thấy kinh được tính là ngày thứ nhất của chu kỳ.

Orgalutran: thuốc điều trị vô sinh hỗ trợ sinh sản

Orgalutran ngăn ngừa tăng hormone tạo hoàng thể (LH) sớm trên những phụ nữ đang được kích thích buồng trứng có kiểm soát (controlled ovarian hyperstimulation-COH) trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (assisted reproduction technique-ART).

Optive: thuốc giảm nóng kích ứng và khó chịu do khô mắt

Optive làm giảm tạm thời cảm giác nóng, kích ứng và khó chịu do khô mắt hoặc do tiếp xúc với gió hay ánh nắng. Thuốc có thể được dùng như một chất bảo vệ tránh kích ứng mắt thêm nữa.

Onglyza: thuốc chỉ định cho bệnh nhân đái tháo đường týp 2

Onglyza chỉ định cho những bệnh nhân chưa kiểm soát tốt đường huyết chỉ với chế độ ăn kiêng và luyện tập và những bệnh nhân không thích hợp sử dụng metformin do chống chỉ định hoặc không dung nạp.

Oxybutynin hydrochlorid: thuốc chống co thắt đường tiết niệu

Oxybutynin không có tác dụng kháng thụ thể nicotinic, nghĩa là ngăn cản tác dụng của acetylcholin tại chỗ nối tiếp thần kinh, cơ xương hoặc tại hạch thần kinh thực vật

Oxcarbazepin: Clazaline, Oxalepsy, Sakuzyal, Sunoxitol, Trileptal, thuốc chống động kinh co giật

Oxcarbazepin được dùng đơn độc hoặc phối hợp các thuốc chống co giật khác để điều trị động kinh cục bộ ở người lớn và trẻ nhỏ trên 4 tuổi

Oxaliplatin: thuốc chống ung thư

Oxaliplatin có tác dụng chống u carcinom đại tràng in vivo, hoạt tính hiệp đồng chống tăng sinh tế bào của oxaliplatin và fluorouracil đã được chứng minh in vitro và in vivo đối với một số mẫu u của đại tràng, vú, bệnh bạch cầu

Ornidazol: Ornisid, thuốc kháng khuẩn diệt amip

Ornidazol được chuyển hóa trong gan và được bài tiết trong nước tiểu, chủ yếu dưới dạng chất liên hợp và chất chuyển hóa, và ở mức thấp hơn trong phân

Orciprenalin sulfat: Metaproterenol sulfate, thuốc giãn phế quản

Orciprenalin sulfat là một amin tổng hợp giống thần kinh giao cảm, có tác dụng trực tiếp kích thích thụ thể beta adrenergic và có ít hoặc không có tác dụng trên thụ thể alpha adrenergic

Olanzapin: Emzypine, Epilanz, Fonzepin, Fonzepin, Fudnoin, thuốc an thần kinh, chống loạn thần

Olanzapin có tác dụng ức chế và làm giảm đáp ứng đối với thụ thể 5 HT2A, liên quan đến tác dụng chống hưng cảm của thuốc, ngoài ra, olanzapin còn làm ổn định tính khí do một phần ức chế thụ thể D2 của dopamin

Omparis

Viêm thực quản trào ngược, loét dạ dày tá tràng lành tính, kể cả biến chứng do sử dụng NSAID, điều trị ngắn hạn, và ở bệnh nhân không thể uống thuốc.

Oralzin

Tương tác với thuốc bổ sung sắt & canxi, tetracycline, hợp chất chứa phospho, fluoroquinolone. Thức ăn làm chậm hấp thu kẽm. Phản ứng phụ gấy Loét dạ dày, buồn nôn, nôn, vị kim loại, nhức đầu, buồn ngủ.

Olmed

Chỉnh liều dựa trên tình trạng lâm sàng mỗi bệnh nhân trong giới hạn 5 đến 20 mg/ngày, Việc tăng liều chỉ nên thực hiện sau khi đánh giá lại lâm sàng thích hợp.

Onbrez Breezhaler

Thận trọng với bệnh nhân bệnh động mạch vành, nhồi máu cơ tim cấp, loạn nhịp tim, cao huyết áp, bệnh co giật, Nhiễm độc giáp, đái tháo đường, có đáp ứng bất thường.

Omelupem

Chỉ sử dụng khi sự sử dụng đường uống không thích hợp, như ở bệnh nhân bệnh nặng: 40 mg, ngày 1 lần. Nếu cần điều trị bằng tĩnh mạch trong hơn 3 ngày: Xem xét giảm liều 10-20 mg/ngày.

Orinase Met

Đái tháo đường typ II (không phụ thuộc insulin) ở người lớn có hoặc không bị béo phì khi chế độ ăn, luyện tập và Glimepiride/Metformin đơn độc không kiểm soát được đường huyết một cách đầy đủ.

Omesel

Loại trừ khả năng bị u ác tính trước khi dùng omeprazol cho người loét dạ dày. Nếu có tác dụng không mong muốn như buồn ngủ hoặc chóng mặt; phụ nữ mang thai, cho con bú: không nên dùng.

Orelox

Cơ chế tác động của cefpodoxime dựa trên sự ức chế tổng hợp thành tế bào vi khuẩn. Thuốc vẫn ổn định khi có sự hiện diện của nhiều enzym beta-lactamase.

Onkovertin

Onkovertin 40 là dung dịch đẳng trương 10% dextran có phân tử thấp nhưng có áp suất thẩm thấu keo cao được pha chế với natri clorid 0,9% hoặc glucose 5%.

Oculotect

Thành phần của Oculotect Fluid và Oculotect Sine rất giống nước mắt nhân tạo vì bao gồm hoạt chất chính polyvidone và các chất điện giải magiê, kali và natri.

Obimin

Các vitamine nhóm B giúp phòng ngừa và hiệu chỉnh sự thiếu hụt vitamine thường gặp trong thời kỳ mang thai và cho con bú.

Mục lục các thuốc theo vần O

Obenasin - xem Ofloxacin, Obracin - xem Tobramycin, Ocid - xem Omeprazol, Octacin - xem Ofloxacin, Octamide - xem Metoclopramid, Octocaine - xem Lidocain.

Ocufen

Ocufen! Natri flurbiprofene thuộc nhóm acid phenylalkanoic có tác dụng hạ sốt, giảm đau, chống viêm trên các bệnh viêm ở động vật.

Oflocet

Các loại thường nhạy cảm Escherichia coli, Klebsiella oxytoca, Proteus vulgaris, Morganella morganii, Salmonella, Shigella, Yersinia, Haemophilus influenzae, Branhamella catarrhalis.

Oframax

Ceftriaxone là một kháng sinh cephalosporine có tác dụng diệt khuẩn nhờ sự ức chế tổng hợp vách tế bào. Nó làm acyl hóa các enzyme transpeptidase gắn trên màng tế bào

Okacin

Okacin! Các vi khuẩn nhạy cảm (nồng độ ức chế tối thiểu MIC90 < 4 mg/ml): Gram dương : Staphylococcus epidermidis, S. aureus, Bacillus, Corynebacterium. Gram âm : Branhamella catarrhalis, Neisseria sp.

Oracefal

Oracefal! Céfadroxil là kháng sinh diệt khuẩn thuộc họ bêta-lactamine, nhóm cephalosporine thế hệ 1.

Optalidon

Noramidopyrine: Nồng độ tối đa trong huyết tương đạt được sau khi dùng thuốc 1-3 giờ. Thời gian bán thải từ 1-1,5 giờ. Khoảng 0,6% thải trừ qua nước tiểu dưới dạng không đổi.

Operoxolid

Operoxolid, Hấp thu nhanh, nồng độ đỉnh trong huyết thanh đạt được sau khoảng 2 giờ. Thức ăn ít làm ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc.

Opedroxil

Opedroxil (cefadroxil monohydrate) là một kháng sinh bán tổng hợp có phổ rộng. Về mặt hóa học, nó có danh pháp là: 7-[D- (-)-a-amino-a- (4-hydroxyphenyl) - acetamido]-3 methyl-delta 3 cefem - 4 carboxylic acid monohydrate.

Opeazitro

Azithromycin cũng cho thấy hoạt tính trên Legionella pneumophilla, Mycoplasma pneumoniae, Mycoplasma pneumoniae, Mycoplasma hominis, Mycobacterium avium.

Ornicetil

Bệnh não do gan: 4 đến10 chai/24 giờ, cho đến 1 g/kg/ngày bằng đường tiêm truyền tĩnh mạch gián đoạn hoặc liên tục. Hòa tan phần thuốc chứa trong lọ trong 20 ml dung dịch glucose, lévulose.

Oropivalone Bacitracine

Oropivalone Bacitracine! Các nghiên cứu trên động vật và trên người cho thấy tixocortol pivalate được chuyển hóa rất nhanh, do đó không gây tác dụng toàn thân.

Otipax

Otipax! Các vận động viên nên lưu ý rằng thuốc này có chứa một thành phần hoạt chất có thể cho kết quả dương tính khi làm x t nghiệm kiểm tra sử dụng chất kích thích (doping).

Otrivin

Otrivin gây tác dụng nhanh trong vòng vài phút, và duy trì trong nhiều giờ, otrivin được dung nạp tốt, ngay cả khi các niêm mạc dễ nhạy cảm.

Oxytocin Synth

Oxytocine tổng hợp hoạt động như ở hormon tự nhiên được sản xuất bởi thùy sau của tuyến yên, nhưng oxytocine tổng hợp không có các tác dụng phụ như các chế phẩm tự nhiên.

Ozothine with Diprophyllin

Trên lâm sàng, thuốc được sử dụng tương đối rộng rãi, không thấy có trường hợp dị tật hay độc tính trên phôi nào được ghi nhận cho đến nay. Tuy nhiên, cần tiến hành thêm nhiều nghiên cứu dịch tễ học.

Oral rehydration salts (ORS)

Khi tiêu hóa bình thường, chất lỏng chứa thức ăn và các dịch tiêu hóa đến hồi tràng chủ yếu dưới dạng một dung dịch muối đẳng trương giống huyết tương về hàm lượng ion natri và kali.

Opium Morphin

Thuốc phiện là dịch rỉ giống như sữa để khô ngoài không khí, thu được bằng cách rạch quả nang chưa chín của cây Papaver somniferum Linné thứ album De Candolle.

Oxytocin

Oxytocin dùng để gây sẩy thai, gây chuyển dạ đẻ hoặc thúc đẻ và để giảm chảy máu nơi nhau bám. Oxytocin gây co bóp tử cung với mức độ đau thay đổi tùy theo cường độ co bóp tử cung.

Oxytetracyclin

Oxytetracyclin bình thường có tác dụng với các vi khuẩn ưa khí và kỵ khí Gram dương và Gram âm, với Rickettsia, Mycoplasma và Chlamydia. Pseudomonas aeruginosa.

Oxymetazolin hydroclorid

Oxymetazolin hydroclorid là một dẫn chất imidazolin có tác dụng giống thần kinh giao cảm. Oxymetazolin có cấu trúc và tác dụng dược lý tương tự naphazolin và xylometazolin.

Oxybenzon

Oxybenzon dùng để bôi ngoài như một thuốc chống nắng. Benzophenon hấp thu có hiệu quả bức xạ UVB suốt phạm vi (bước sóng 290 đến 320 nanomet) và cũng hấp thu một số bức xạ UVA.

Oxamniquin

Oxamniquin là thuốc trị sán máng bán tổng hợp có tác dụng trên cả dạng trưởng thành và chưa trưởng thành của Schistosoma mansoni, nhưng không có tác dụng diệt ấu trùng.

Oxacillin

Oxacilin được chỉ định điều trị nhiễm khuẩn nhạy cảm như viêm xương - tủy, nhiễm khuẩn máu, viêm màng trong tim và nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương.

Ondansetron

Hóa trị liệu và xạ trị có thể gây giải phóng 5HT ở ruột non và gây phản xạ nôn bằng cách hoạt hóa dây thần kinh phế vị thông qua thụ thể 5HT3.

Omeprazol

Omeprazol ức chế sự bài tiết acid của dạ dày do ức chế có hồi phục hệ enzym hydro - kali adenosin triphosphatase (còn gọi là bơm proton) ở tế bào viền của dạ dày.

Ofloxacin

​Ofloxacin có tác dụng mạnh hơn ciprofloxacin đối với Chlamydia trachomatis, Ureaplasma urealyticum, Mycoplasma pneumoniae. Nó cũng có tác dụng đối với Mycobacterium leprae.