Điều dưỡng ghi chép và theo dõi lượng dịch vào ra của bệnh nhân

2015-03-17 09:28 AM

Dịch vào bao gồm tất cả dịch hiển nhiên như là nước, sữa, nước trái cây, cà phê, trà, và toàn bộ khối lượng dịch đường tĩnh mạch, bao gồm truyền máu và bất cứ loại dịch nào được đưa vào theo đường tĩnh mạch.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Người điêu dưỡng hoặc bác sĩ có thể chỉ định theo dõi (đo lường) dịch vào và ra của người bệnh vì các lý do khác nhau. Thông thường chỉ định đối với người bệnh có nguy cơ hay đang ở trong giai đoạn nguy kịch của sự mất cân bằng dịch.

Hầu hết các cơ sở y tế có hai loại ghi chép dịch vào và ra:

Một loại ghi chép cạnh giường ghi nhận tất cả dịch được đo và số lượng theo mỗi ca trực.

Một loại ghi chép thường xuyên 24 giờ theo biểu đồ của người bệnh

Một số cơ sở y tê có loại khác để ghi chép các đặc thù của dịch tĩnh mạch như là loại dịch, chất bổ sung, thời gian được bắt đầu, số lượng được hấp thu và số lượng duy trì mỗi ca trực.

Đơn vị dược dùng để đo lượng dịch vào vào là mililit (ml) hoặc centimeter cubic (cc); đây là đơn vị đo lường cân bàng thuộc mét. Để đo lượng dịch vào và ra, khả năng của các vật chứa ở hộ gia đình cần được chuyển dịch thành đơn vị thuộc mét.

Mục tiêu

Đánh giá cân hăng dịch của cơ thể.

Xác định có phải người bệnh đang được đưa vào một lượng dịch đầy đủ theo yêu cầu bình thường hay không.

Thực hành ghi chép dịch vào và ra vào phiếu theo dõi.

Lý thuyết liên quan

Lý thuyết liên quan đến kỹ thuật

Thăng bằng dịch, điện giải và acid-base trong cơ thể là cần thiết để duy tri tình trạng sức khỏe và chức năng của các cơ quan. Thăng bằng này được duy tri bởi:

Lượng dịch và điện giải vào và ra.

Sự phân bố của dịch, điện giải trong cơ thế.

Sự điều hoà chức năng thận và phổi.

Mất thăng bằng có thể làm thay đói các chức năng sống của cơ thể

Hô hấp.

Chuyên hoá.

Hệ thần kinh trung ương.

Đo lượng dịch vào, ra giúp

Xác định tổng trạng chung của người bệnh.

Tìm ra dấu hiệu sớm của rối loạn nước và điện giải.

Điều chỉnh rối loạn nước và điện giải.

Dịch vào bao gồm tất cả dịch hiển nhiên như là nước, sữa, nước trái cây, cà phê, trà,... và toàn bộ khối lượng dịch đường tĩnh mạch, bao gồm truyền máu và bất cứ loại dịch nào được đưa vào theo đường tĩnh mạch.

Dịch ra bao gồm nước tiểu hay bất kỳ dịch ra khác, như là chất nôn, phân lỏng và dẫn lưu khác.

Những yếu tố ảnh hưởng tới cân bằng dịch, và điện giải

Tuổi: rất trẻ, rất già.

Bệnh mạn tính: ung thư, bệnh tim mạch (suy tim tắc nghẽn v.v...), bệnh nội tiết (Cushing, đái tháo đường v.v...), suy dinh dưỡng, bệnh phổi mạn tính, bệnh thận (suy thận v.v...), giảm mức độ nhận thức.

Chấn thương: chấn thương nặng, chấn thuơng vùng đầu.

Bỏng nặng.

Điều trị: dùng thuốc lợi tiểu, steroid, liệu pháp tĩnh mạch.

Dinh dưỡng toàn bộ ngoài đường tiêu hoá.

Mất qua dạ dày ruột: viêm dạ dày ruột, hút dịch dạ dày, rò tiêu hóa.

Quy trình kỹ thuật

Xem hổ sơ bệnh án

Kiểm tra:

Y lệnh của bác sĩ.

Kiểm tra đúng người bệnh,nđúng giường bệnh.         .

Chuẩn bị dụng cụ

Dung cụ ghi chép: phiếu theo dõi lượng dịch vào và ra cạnh giường và một cây viết chì hoãc viết mực.

Dung cụ đo lường:

Bô đi cầu liền ghế, hoãc bô đi tiểu.

Vật chứa có chia mức độ để đo lượng dịch vào và vật chứa riêng biệt để do lượng dịch ra       .

Chuẩn bị người bệnh

Giải thích với người bệnh lý do việc đo dịch vào ra và sự cần thiết để sử dụng các dụng cụ đo lường.

Hướng dẫn cách sử dụng các dụng cụ đo lường.

Để người bệnh tham gia việc ghi chép đo lường nếu có yêu cầu.

Đo lượng dịch vào của người bệnh

Theo bữa ãn, ghi vào phiếu theo dõi dịch vào và ra cạnh giường số lượng và thời gian của mỗi loại dịch đươc đưa vào bao gom:

Tất cả dịch hiển nhiên như là nước, sữa, nước trái cây, cà phê, trà,... hay bất kỳ thực phẩm nào mà trở thành dịch ở nhiệt độ của phòng. Không đo lường các thực phẩm được nghiền + Xác định có phải người bệnh đã được đưa vào bất cứ một loại dịch khác giữa các bữa ăn hay không, và cộng thêm số lượng đó vào phiếu. (VD: nước uống kèm với thuốc). Để đánh giá số lượng nước được sử dụng từ một bình nước, đo lượng nước còn lại và trừ với số lượng khi bình đầy rồi đổ đầy bình lại.

Toàn bộ khối lượng dịch đường tĩnh mạch, bao gốm truyền máu và bất cứ loại dịch nào được đưa vào theo đường tĩnh mach (nếu có).

Ghi chép chính xác số lượng và thời gian của từng loại dịch.

Theo dõi dịch vào qua đường tĩnh mạch.

Đo lượng dịch ra của người bệnh

Theo mỗi lần bài tiết, đổ nước tiểu vào trong vật chứa đo lường, quan sát số lượng, và ghi chép số lượng và thời gian bài tiết vào phiếu ghi chép lượng dịch vào và ra cạnh giường. Chùi sạch bô tiểu hoặc dụng cụ đo lường và đưa trả lại cho người bệnh.

Đối với người bệnh có đặt thông tiểu lưu, ghi nhận và ghi chép số lượng nước tiểu vào cuối ca, và rồi làm trống túi dẫn lưu. Túi dẫn lưu thường đã có làm dấu mức số lượng nước tiểu.

Nếu có bất kỳ sự nghi ngờ về túi dẫn lưu, làm trống nó trước tiên vào một vật chứa có đo lường đúng đắn.

Ghi chép bất kỳ dịch ra khác, như là chất nôn, phân lỏng và dẫn lưu khác, đặc biệt là loại dịch và thời gian.

Nếu người bệnh bị đi tiểu dầm không tự chủ hoặc cường giao cảm, đánh giá và ghi chép lượng dịch ra này. Ví dụ, một người bệnh tiểu dầm có thể ghi" tiểu dầm X 3" hoặc ra giường đẫm ướt rộng 12 inch. Đối với người bệnh giao cảm bạn có thể ghi nhận “mổ hôi +++, áo choàng và khăn trải gưỡng thay X 2".

Thu dọn dụng cụ

Thu dọn, chùi rửa dụng cụ, đảm bảo theo nguyên tắc võ khuẩn.

Ghi chép hổ sơ bệnh án

Tính bilan dịch vào ra cho người bệnh.

Báo cảo với bác sĩ tinh trang mất cân bằng dịch cùa người bệnh.

Ghi chép diều chỉnh kế hoạch chăm sóc điều dưỡng cho phù hợp với tình trạng của người bệnh.

Kịp thời phát hiện các rối loạn cân bằng dịch cơ thể của người bệnh.

Bài viết cùng chuyên mục

Phát thuốc cho bệnh nhân và ghi chép

Lưu ý sử dụng thuốc cho trẻ em và người cao tuổi vì đặc điểm sinh lý cơ thể trên lứa tuổi này ảnh hưởng nhiều đến khả năng hấp thu, chuyển hoá và đào thải thuốc.

Kỹ thuật pha thuốc cho người bệnh

Điều dưỡng cần phải biết rõ quy trình pha thuốc và thận trọng trong thao tác để có được một bơm tiêm thuốc không bị nhiễm khuẩn và không làm giảm liều lượng của thuốc.

Kỹ thuật đặt kim luồn ngoại vi

Kỹ thuật tiêm, truyền tĩnh mạch được thực hiện bằng kim luồn ngoại vi là phương pháp tiêm, truyền tĩnh mạch sử dụng loại kim làm bằng ống nhựa mềm luồn vào trong lòng tĩnh mạch.

Thay băng rửa vết thương sạch

Vết thương sạch là vết thương ngoại khoa, không bị nhiễm khuẩn, không có biểu hiện viêm (không có dịch rỉ viêm), quá trình điều trị có tiến triển tốt, tổ chức hạt đang phát triển hoặc đang trong giai đoạn lên da non.

Thay băng rửa vết thương nhiễm khuẩn

Vết thương nhiễm khuẩn là vết thương có dấu hiệu của viêm (sưng, nóng, đỏ, đau, có dịch rỉ viêm chảy ra từ vết thương). Nếu nhiễm khuẩn kéo dài thì có mủ hoặc tổ chức hoại tử.

Thay băng vết thương và cắt chỉ

Khâu da được chỉ định trong các trường hợp phẫu thuật, trong chấn thương phần mềm trước 6 giờ. Thường ta sử dụng kim chỉ để khâu, có trường hợp sử dụng móc bấm bằng kim loại (móc bấm Michel), móc có tác dụng bấm ép hai mép da vào nhau thay cho chỉ khâu.

Kỹ thuật hút đờm rãi

Kỹ thuật hút mở là kỹ thuật hút có sử dụng ống hút vô khuẩn và ống hút này được mở ra tại thời điểm hút, người điều dưỡng phải mang găng vô khuẩn khi tiến hành thủ thuật hút.

Thở ô xy qua mũi và ống mở khí quản

Liệu pháp oxy được chỉ định cho các người bệnh có biểu hiện thiếu oxy (nồng độ oxy thấp hoặc độ bão hòa oxyhemoglobin trong máu động mạch thấp).

Kỹ thuật sơ cứu gãy xương

Cho dù là gãy xương kín hay gãy xương hở thì công tác sơ cứu gãy xương cũng phải được tiến hành nhanh chóng chính xác tại nơi xảy ra tai nạn.

Các biện pháp cầm máu tạm thời

Trước khi tiến hành sơ cứu mạch máu, cần phải nhận định được vết thương mạch máu thuộc động mạch, tĩnh mạch hay mao mạch.

Kỹ thuật băng

Khi sử dụng băng cuộn nếu băng không đúng sẽ gây ra các thương tổn vùng mô bên dưới, vùng lân cận hoặc tạo ra sự khó chịu cho nạn nhân.

Rửa tay thường quy phòng ngừa nhiễm khuẩn

Vệ sinh đôi tay là biện pháp quan trọng nhất trong việc phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện vì đôi bàn tay là phương tiện quan trọng làm lan truyền các tác nhân gây nhiễm khuấn đã được nghiên cứu rất nhiều và không còn là vấn đề tranh cãi.

Sát khuẩn tay bằng dung dịch cồn

Trước khi di chuyên bàn tay từ vùng cơ thể nhiễm khuẩn sang vùng sạch trên cùng một người bệnh và bàn tay không dính máu, không dính dịch tiết của người bệnh.

Vệ sinh vùng hậu môn sinh dục cho người bệnh

Những người bệnh nặng không tự chăm sóc vệ sinh được. Hằng ngày ta cần giúp họ rửa sạch vùng hậu môn sinh dục, nhất là khi người bệnh dại, tiểu tiện không tự chủ.

Kỹ thuật mang găng vô khuẩn

Trên lâm sàng người ta thấy một tỷ lệ lớn các mầm bệnh trong các bệnh phẩm đồng nhất với các vi khuẩn cư trú trên da tay, nó được coi như một chỉ số quan trọng trong việc xác nhận nhiễm khuân bệnh viện.

Kỹ thuật rửa tay vô khuẩn ngoại khoa

Rửa tay ngoại khoa được áp dụng bắt buộc cho phẫu thuật viên và người phụ mổ trước khi tiến hành phẫu thuật, chuẩn bị dụng cụ vô khuẩn hay thực hiện các chăm sóc đặc biệt.

Kỹ thuật mặc và cởi áo choàng vô khuẩn

Người phụ khi mặc áo không tiếp xúc tay với mặt ngoài của áo và tay của người mặc. Áo bị coi là nhiễm khuẩn khi bị chạm vào người phụ giúp.

Chuẩn bị dụng cụ tiệt khuẩn y tế

Đảm bảo không cho vi sinh vật, bụi và hơi ẩm xâm nhập. Dụng cụ trong gói/hộp phải được giữ nguyên tình trạng vô khuẩn từ sau khi tiệt khuẩn đến khi dùng.

Kỹ thuật khử khuẩn tiệt khuẩn dụng cụ y tế

Hấp ướt: là phương pháp thông thường và thích hợp nhất để tiệt uẩn cho tất cá các dụng cụ dùng trong các thủ thuật xâm lấn chịu được nhiệt và độ ẩm.

Sử dụng bô vịt, bô bẹt cho bệnh nhân

Khi người bệnh không thể rời khỏi giường để đi đến nhà vệ sinh đi tiêu tiểu, người điều dưỡng cần cung cấp bô dẹt để họ sử dụng tại giường. Trong các dụng cụ sử dụng để bài tiết tại giường có hai loại bô dẹt là phù hợp.

Quy trình làm sạch và rửa dụng cụ khám chữa bệnh

Mục đích của cọ rửa dụng cụ là để loại bỏ toàn bộ các chất bẩn dính trên dụng cụ, nơi ẩn náu của vi khuẩn tránh tiếp xúc với các hoá chất sát khuẩn.

Hỗ trợ dinh dưỡng cho người bệnh

Dinh dưỡng là một nhu cầu cơ bản của mỗi người, nhưng đối vối người bệnh do ảnh hưởng của bệnh tật nên thường cảm thấy ăn không ngon miệng nhất là những người bệnh trong giai đoạn ủ bệnh và toàn phát bệnh.

Kỹ thuật đặt ống thông dạ dày

Trên lâm sàng thường gặp đặt ống thông dạ dày trong hỗ trợ việc nuôi dưỡng, cho thuốc người bệnh đối với những người bị mất khả năng ăn uống bằng đường miệng.

Đặt ống thông vào trực tràng

Trong điều trị người ta đưa nước, chất dinh dưỡng, thuốc vào làm đại tràng giãn ra để làm lỏng phân và có thể đưa các chất dinh dưỡng, thuốc vào cơ thể qua đường ruột.

Kỹ thuật thụt tháo cho bệnh nhân

Thụt tháo là một phương pháp làm sạch phân ở đại tràng, bằng cách kích thích nhu động ruột thông qua sự truyền một thể tích lớn dung dịch vào đại tràng, kích thích tại chỗ của trực tràng và đại tràng sigma.

Kỹ thuật thông tiểu nữ

Tính chất nước tiểu bình thường là trong. Nước tiểu mới bài xuất ra thường sạch, không có cặn lắng, nước tiểu dẫn lưu qua ống thông thường trong không có cặn lắng nhưng thỉnh thoảng có một vài mảnh vụn niêm mạc.

Kỹ thuật thông tiểu nam

Niệu đạo là đường dẫn nước tiểu đến bàng quang, ở nam, niệu đạo dài khoảng 20 cm dùng để vận chuyển nước tiểu và tinh dịch.

Dẫn lưu nước tiểu liên tục

Dẫn nước tiểu liên tục là dùng ống thông cố định, lưu giữ một thời gian để dẫn nước tiểu từ bàng quang vào túi đựng nước tiểu vô khuẩn.

Kỹ thuật rửa bàng quang liên tục

Đối với người bệnh có bàng quang bị nhiễm trùng, rửa bàng quang bằng cách truyền nhỏ giọt dung dịch rửa kèm kháng sinh.