Atlas giải phẫu hốc mũi (Cavum nasi)

2015-12-18 04:09 PM

Các xương cuốn mũi hoặc xương xoăn. Thành bên ngoài của các Hốc mũi không phẳng mà gồ ghề do có các xương cuốn. Thực ra đây chỉ là các lá xương

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Hốc mũi hình thành một hệ thống đường hầm có nhiều ngách, nằm ở phần trung tâm của khối xương mặt, và được phân thành hai nửa bởi một vách ở chính giũa.

Cốc hốc mũi thông với các hốc hơi gọì là các xoang cạnh mũi (sinus paranasales) hoặc xoang hơi của mặt: đó là các xoang trán, xoang hàm, xoang bướm, và xoang sàng. Về phía trước, các hôc mũi (xương) mở ra ngoài bằng hai lỗ gọi là các lỗ mũi trước. Về phía sau, các hốc mũi (xương) thông với phần họng-mũi (còn gọi là tỵ- hầu) bởi hai lỗ gọi là các lỗ mũi sau. Các hốc mũi là cơ quan để ngửi; vì vị trí cao của chúng, các hốc mũi là phần trên cùng của đường hô hấp.

Mỗi hốc mũi có bốn thành, đó là: thành bên ngoài không đều đặn và thành bên trong, thành trên và thành dưới; ba thành sau này có cấu trúc đơn giản hơn.

Thành bên trong của hai hốc mũi là một khung xương-sụn chung cho cả hai hốc mũi nên còn gọi là vách mãi (septum nasi), vách mũi họp bởi mảnh đứng thẳng của xương sàng (ở phần trên), xương lá mía hoặc xương lưỡi cày (ở phần sau và dưới) và vách sụn (ở phần trước).

Vách mũi được phủ bỏi niêm mạc dễ tách khỏi nền xương-sụn, Cách bờ sau của lỗ mũi trước 1,5cm, đôi khi có thể thấy một lỗ nhỏ của cơ quan dacobson còn gọi là cơ quan lá mía-mũi (organum vomeronasaỉ), là một ống nhỏ di tích phôi thai, được lót bởi niêm mạc trên một chiều dài khoảng vài milimét. ở phần dưới của vách mũi, trong lớp niêm mạc có một “vết mạch”, là một vùng rất giàu mạch máu, và thường là nơi xảy ra chảy máu cam (chảy máu mũi).

Thành trên của mỗi hốc mũi còn gọi là trần hốc mũi, là một máng dài theo chiều trước-sau, và cong lõm hướng xuống phía dưới, chỉ rộng khoảng vài milimét. Trần hốc mũi kể từ phía trước ra phía sau họp bởi: các xương mũi (còn gọi là xương sống mũi), gai mũi của xương trán, mảnh ngang của xương sàng (còn gọi là mảnh sàng: lamina cribosa) và thân xương bướm. Trần hốc mũi ngăn cách hốc mũi với hộp sọ, và là phần xương dễ gãy nhất của sọ-mặt, vì mảnh sàng rất mỏng.

Thành dưới còn gọi là nền (hoặc sàn) của hốc mũi, cũng có hình thể như một máng, nhưng máng này rộng hơn và ngắn hơn so với trần của hốc mũi. Sàn hốc mũi ngăn cách các hốc mũi với hốc miệng. Ba phần tư trước của sàn hốc mũi hình thành bởi mỏm khẩu cái của xương hàm trên, còn một phần tư sau là mảnh ngang của xương khẩu cái. Niêm mạc phủ nền hốc mũi che kín một ống nhỏ gọi là ống răng cửa (ductus incisiuus) hoặc ống khẩu cái trước.

Thành bên ngoài của các hốc mũi họp thành bởi mặt trong của các xương hàm trên và cánh trong của mỏm chân bướm, hai xương này tiếp khớp lần lượt với:

xương lệ (os lacrimale);

mảnh đứng thẳng của xương khẩu cái;

các khối bên của xương sàng (còn gọi là mê cung xương sàng);

xương cuốn mũi dưới (concha nasalis inferior) còn gọi là xương xoăn dưới.

Xương sàng là yếu tố chính hình thành nên thành bên ngoài của hốc mũi, vì vậy xương này là được coi là “xương chính của mũi” (Guerran). Các xương tham gia vào thành bên ngoài của hốc mũi giới hạn hai ống và một lỗ:

Ống mũi-lệ hoặc ống lệ-tỵ (canalis naso-lacrimalis), ống này giới hạn ở phía ngoài bởi xương hàm trên, xương lệ và mỏm lệ của xương cuốn mũi dưới; ở phía trong bởi chính xương cuốn mũi dưới; ống mũi-lệ là đường thông giữa hốc mắt với hốc mũi, qua ống này nước mắt sẽ đổ vào ngách mũi dưới.

Ống khẩu cái lớn hoặc ống khẩu cái sau, nằm giữa xương hàm trên và xương khẩu cái; ống này ngăn cách hoàn toàn với hốc mũi và chỉ có lỗ mở ra ở vòm khẩu cái.

Lỗ bướm-khẩu cái (foramen spheno- palatinum) giới hạn bởi một khuyết cùng tên và xương bướm; qua lỗ này, hố chân bướm-khẩu cái thông với hốc mũi, và cũng qua lỗ này mà bó mạch-thần kinh chính của hốc mũi đi vào hốc mũi, do đó lỗ bướm- khẩu cái được coi là “rốn” của hốc mũi.

Các xương cuốn mũi hoặc xương xoăn. Thành bên ngoài của các Hốc mũi không phẳng mà gồ ghề do có các xương cuốn. Thực ra đây chỉ là các lá xương, cong lồi về phía lòng của hốc mũi, và có chiều dài theo hướng trước-sau.

Xương cuốn mũi dưới hoặc xương xoăn dưới (concha nasalis inferior) là một xương riêng biệt, và là xương dài nhất trong số các xương cuốn; xương cuổn dưới nằm bắc ngang qua lỗ của xoang hàm, che kín phần dưới của lỗ này, và tiếp khớp với gò cuốn của các xương hàm trên và xương khẩu cái, và tiếp khớp với cả xương lệ.

Các xương cuốn (xoăn) trên và giữa (concha nasalis superior et media) không phải là các xương riêng mà là các bộ phận của xương sàng. Bờ trên của các xương cuốn này dính vào khối bên của xương sàng (hoặc mê cung xương sàng).

Xương cuốn giữa hình thành như một mỏm hình vỏ-van nhô vào phía trong, tới gần sát với vách mũi, và do đó phân chia hốc mũi ra thành hai tầng: tầng trên, là vùng khứu giác (regio olfactoria) và tầng dưới là vùng hô hấp (regio respiratoria). Xương cuốn giữa kéo dài ra trước và ra sau, vượt quá ở bên trên các xoang sàng ra phía trước và ra phía sau, để khớp với mào sàng (hoặc gờ cuốn trên) của xương hàm trên và xương khẩu cái. Xương cuốn trên nhỏ hơn, nhưng có hình thể giống với xương cuốn giữa; có thể còn có một xương cuốn thứ tư hoặc xương cuốn trên cùng (xương cuốn Santorini). Phía trên các xương cuốn là vùng trên cuốn (hoặc ngách bướm-sàng), phía trước của ngách này có lỗ của xoang bướm mở vào hốc mũi. Mỗi xương cuốn cùng với thành ngoài của hốc mũi ở phần tương ứng, giới hạn một khoảng gọi là ngách mũi (meatus nasi).

 Các sụn của mũi - nhìn từ phía bên ngoài

Các sụn của mũi - nhìn từ phía bên ngoài

Các sụn của mũi - nhìn từ phía bên trong 

Các sụn của mũi - nhìn từ phía bên trong

 Các sụn của mũi - nhìn từ phía bên dưới

Các sụn của mũi - nhìn từ phía bên dưới

Những ngách mũi

Ngách mũi trên (meatus nasi superior) chỉ là một khoảng nhỏ, nằm ở phần sau của hốc mũi, trong ngách mũi trên thấy có 2 hoặc 3 lỗ nhỏ của các tế bào sàng sau (cellulae posteriors) mở vào ngách mũi này.

Ngách mũi giữa (meatus nasi medius): ở thành bên ngoài của ngách này có nhiều cấu tạo:

Bọt sàng (buila ethmoidalis) bao gồm một tế bào sàng hình tổ chim én, thành trên của tế bào sàng này là một lá xương thuộc về xương xoăn giữa;

Một hoặc nhiều lỗ nhỏ của những tế bào sàng trước và giữa mở ra ở bên dưới và phía trước của bọt sàng (vào một rãnh ở phía sau của bọng này);

Nhĩ ngách mũi giữa hoặc lỗ thông giữa những ngách mũi;

Mỏm móc, là một lá xương có hình một lưỡi gươm cong, tự tách ra đi vào vùng đế mũi (agger nasi) - một vùng lồi lên khác cũng do một tế bào sàng tạo nên - mỏm móc vượt qua lỗ của xoang hàm, rồi tiếp với xương cuốn dưới ở phía dưới, và với xương khẩu cái ở phía sau;

Khe bán nguyệt (hiatus semilunaris) hoặc rãnh móc-bọt, nằm ở giữa bọt sàng và mỏm móc;

Phễu sàng hoặc ống trán-mủi liên tiếp với khe bán nguyệt, bắt chéo khối bên xương sàng; đây là một “ống thông nhô lên” cao trên đó hình thành xương cuốn giữa.

Ngách mũi dưới (meatus nasi inferior): ở phần trước của bờ trên của ngách này có lỗ dưới của ống mũi-lệ mở vào ngách.

Lỗ của xoang hàm bị che lấp ở phía dưới bởi mỏm hàm của xương cuốn dưới; xoang hàm mỏ vào ngách mũi giữa.

Nỉêm mạc mũi: Niêm mạc phủ thành bên ngoài của hốc mũi dính chặt với lốp ngoại cốt (màng xương, cốt-mạc) của các xương, và được gọi là niêm mạc ngoại cốt. Niêm mạc này phủ bề mặt các xương và lồi ra để luồn sâu vào trong những xoang cạnh hốc mũi và những tế bào sàng (gọi chung là các xoang hơi). Riêng xoang hàm thì không như vậy, vì niêm mạc mũi che lấp hai lỗ của xoang, và chỉ để cho xoang thông với hốc mũi ở phía sau và phía trên bởi một lỗ nằm ở phía trên mỏm móc. Các lỗ của tất cả các xoang hơi đều mở vào ngách mũi giữa là do chúng có cùng một nguồn gốc phôi thai với hốc mũi tương ứng, từ nguồn gốc phôi thai chung này về sau mới có sự phân ly khác nhau, về mặt định khu, thành bên ngoài của hốc mũi có thể phân chia thành ba vùng khác nhau: vùng ở phía trước phẳng nhẵn, vùng ở phía sau có các ngách vì có những xương cuốn và vùng trên là vùng khứu giác.

Tháp mũi - khung xương, sụn và các cơ 

Tháp mũi - khung xương, sụn và các cơ

Các mạch máu và dây thần kinh

Động mạch chính cung cấp máu cho hốc mũi là nhánh tận của động mạch hàm trên, gọi là động mạch bướm-khẩu cái, và những nguồn phụ là nhũng nhánh của động mạch mắt và động mạch mặt.

Động mạch bướm-khẩu cái (a. sphaenopalatina) chui qua lỗ bướm- khẩu cái (được coi như “rốn” của hốc mũi) để thoát ra khỏi hố dưới thái dương, rồi phân chia thành nhiều nhánh gọi là các động mạch mũi sau, mũi ngoài, và mũi trong (aa. nasales posteriores, laterales et septi).

Động mạch mũi trong (còn gọi là động mạch vách mũi) sẽ tách ra những nhánh mũi trên và ngoài để phân phối cho vùng của xương cuốn trên, rồi đi chếch vách mũi để tới gần ống răng cửa thì nối tiếp với động mạch khẩu cái xuống, động mạch này đi ngang qua màn khẩu cái (hoặc khẩu cái mềm)  từ phía trước ra phía sau.

Những động mạch mũi ngoài, đôi khi hợp nhất thành một thân chung, phân bố các nhánh cho các xương cuốn mũi và cho các ngách mũi dưới và giữa.

 Các mạch máu và dây thần kinh của niêm mạc mũi

Các mạch máu và dây thần kinh của niêm mạc mũi

Những nguồn động mạch phụ

Những động mạch sàng trước và sau (aa. ethmoidales anterior et posterior), đều là nhánh của động mạch mắt; những động mạch sàng này cung cấp máu cho vùng khứu giác và cho niêm mạc của vùng trước xương cuốn, cũng như cho xoang trán;

Động mạch dưới-vách mũi, là một nhánh của động mạch mặt; phân nhánh ở vùng trước-dưới của vách mũi.

‘"Vết mạch” là một vùng nhỏ niêm mạc nằm ở phần dưới trước của vách mũi, ở đây các động mạch đã mô tả ở trên nối tiếp với nhau. Hầu hết những trường hợp chảy máu cam (chảy máu mũi) nặng thường xảy ra ở phía sau của “vết mạch” và máu chảy ra là từ động mạch mũi trong.

Tĩnh mach đều đi kèm theo các động mạch cùng tên. Chúng tạo thành hai mạng lưới: một mạng lưới nông ở trong niêm mạc và một mạng sâu ở trong cốt-mạc (ngoại cốt). Những tĩnh mạch trong xương chảy thẳng tới rốn của hốc mũi, và là nguồn chảy máu trong phẫu thuật cắt xương cuốn. Máu tĩnh mạch của hốc mũi một phần được dẫn lưu qua những tĩnh mạch mũi sau vào đám rối tĩnh mạch chân bướm, một phần qua những tĩnh mạch mũi trên tới xoang tĩnh mạch hang, còn một phần nhỏ qua những tiểu tĩnh mạch đe đổ vào tĩnh mạch mặt.

Mạch bạch huyết (bạch mạch) tạo nên những mạng lưới phong phú nằm ở trong niêm mạc mũi, và cũng giống như các tĩnh mạch, chúng đẫn lưu bạch huyết theo ba hưóng: tới những hạch bạch huyết sau- hầu, tới các hạch cổ sâu, và một phẫn nhỏ hơn tới các hạch bạch huyết dưới-hàm.

Thần kinh giác quan (khứu giác)

Được đảm bảo bởi dây thần kinh khứu giác, bao gồm nhiều sợi xuất phát từ vùng khứu giác của niêm mạc mũi, và tập họp trên một diện tích khoảng 2 centimét vuông, ở mặt trên của xương cuốn trên và ở phần vách mũi ngang với mức đó. Dây thần kình khứu giác là những bó sợi trục của các tế bào của niêm mạc khứu, các tế bào khứu giác này nằm rải rác, xen lẫn giữa những tế bào nâng đỡ của lớp niêm mạc. Những tế bào khứu giác lưỡng cực sẽ tiếp xúc thông qua các khớp thẫn kinh (sinap) với những tế bào mũ-ni (hoặc mũ sư) của hành khứu bởi sợi trục của chúng, sau khi những sợi trục này đã chui qua những lỗ của mảnh ngang xương sàng. Từ đây những xung thần kinh khứu giác sẽ trực tiếp đi tới vùng khứu não, không qua một trạm trung gian nào nữa, và do đó đường dẫn truyền khứu giác chỉ bao gồm có hai nơron.

Thần kinh cảm giác được đảm bảo bởi những nhánh tận cùng của dây thần kinh bướm-khẩu cái, một nhánh của dây thần kinh hàm trên, dây này lại là nhánh thứ hai của dây thần kinh tam thoa. Người ta phân biệt các dây thần kinh mũi trên (nn. nasales superiores) tới phân nhánh chi phối cảm giác ở phần niêm mạc phủ các xương cuốn giữa và dưới, dây thần kinh mũi-khẩu cái (n. naso-palatinus) thì chi phôi cảm giác ở vách mũi, và những nhánh của nhũng dây thần kinh khẩu cái trước và giữa thì chi phối cảm giác ở nền hốc mũi. Ngoài ra, có một nhóm những sợi thần kinh thực vật nằm trong dây thần kinh bướm- khẩu cái, chúng xuất phát từ hạch chân bướm-khẩu cái hoặc hạch bướm-khâu cái. Những sợi thần kinh thực vật kể trên đi tới hạch bướm-khẩu cái là nhũng sợi tách ra từ một dây thần kinh, gọi là dây thần kinh Vidien (đọc là vi-điêng), nằm trong ống chân bướm, thông qua rễ giao cảm của đám rối thần kinh quanh động mạch cảnh trong, và từ các dây thần kinh đá thông qua dây thần kinh mặt và dây thần kinh thiệt-hầu.

Dây thần kinh mũi trong hoặc dây thần kinh sàng trước, là nhánh của dây thần kinh mắt chi phối cảm giác ở vùng lô mũi và phần trước của mũi.

Bài viết cùng chuyên mục

Khí quản: giải phẫu và chức năng

Khí quản kéo dài từ cổ và chia thành hai phế quản chính phân chia đến phổi, chúng giống như thân cây phế quản.

Phế quản: giải phẫu và chức năng

Khi phế quản bị viêm do kích thích hoặc nhiễm trùng, dẫn đến việc thở khó khăn hơn, những người bị viêm phế quản cũng có xu hướng có nhiều chất nhầy và đờm hơn

Vòm họng: giải phẫu và chức năng

Vòm họng được bao quanh bởi nếp gấp vòi nhĩ họng và amidan, có thể bị viêm khi bị nhiễm trùng, nó chứa mô adeno, chống nhiễm trùng và mở các ống Eustachian

Thận: giải phẫu và chức năng

Thận là hai cơ quan hình hạt đậu trong hệ thống tiết niệu, chúng giúp cơ thể thải chất thải như nước tiểu, nó cũng giúp lọc máu trước khi đưa nó trở lại tim

Mũi: giải phẫu và chức năng

Khi không khí đi qua mũi, các tế bào chuyên biệt của hệ thống khứu giác, não nhận biết và xác định mùi, lông trong mũi làm sạch không khí của các hạt lạ

Não: giải phẫu và chức năng

Bộ não là một trong những bộ phận cơ thể quan trọng nhất, vì vậy điều quan trọng là phải biết cách nhận biết các dấu hiệu có thể có vấn đề

Phổi: giải phẫu và chức năng

Phổi được bao quanh bởi xương ức và lồng ngực ở mặt trước và đốt sống ở mặt sau, lồng xương này giúp bảo vệ phổi và các cơ quan khác trong ngực

Hệ sinh sản nam: giải phẫu và chức năng

Tinh trùng rời khỏi dương vật trong một hỗn hợp các chất tiết để nuôi dưỡng và vận chuyển các tế bào vào hệ thống sinh sản nữ để sinh sản

Hệ sinh sản nữ: giải phẫu và chức năng

Phụ nữ được sinh ra với một số lượng lớn tế bào trứng, mãi đến sau khi bắt đầu dậy thì, những tế bào này đã đủ trưởng thành để duy trì sự sống

Hệ thần kinh: giải phẫu và chức năng

Các hệ thống thần kinh xử lý thông tin được thu thập và sau đó gửi hướng dẫn đến phần còn lại của cơ thể, tạo điều kiện cho một phản ứng thích hợp

Hệ thống cơ: giải phẫu và chức năng

Chuyển động cơ xảy ra khi tín hiệu thần kinh tạo ra những thay đổi điện trong tế bào cơ, canxi được giải phóng vào các tế bào và mang lại sự co giật cơ ngắn

Hệ thống xương: giải phẫu và chức năng

Bộ xương của một người trưởng thành chứa 206 xương, bộ xương của trẻ em thực sự chứa nhiều xương vì một số trong số chúng, bao gồm cả xương sọ, chưa hợp nhất

Hệ thống tiêu hóa: giải phẫu và chức năng

Sự kết nối giữa tất cả các cơ quan tiêu hóa và dịch của chúng đòi hỏi một sự cân bằng có thể dễ dàng bị phá vỡ, bao gồm chế độ ăn uống, căng thẳng, bệnh tật

Hệ thống hô hấp: giải phẫu và chức năng

Ngoài việc phân phối không khí và trao đổi khí, hệ thống hô hấp sẽ lọc, làm ấm và làm ẩm không khí hít thở, hệ hô hấp cũng đóng một vai trò trong lời nói

Tim: giải phẫu và chức năng

Tim có tính năng bơm kép giúp vận chuyển máu ra khỏi nó và quay trở lại, máu mới được oxy hóa rời khỏi bên trái tim thông qua động mạch chủ

Hệ thống tuần hoàn: giải phẫu và chức năng

Hệ thống tuần hoàn hoạt động nhờ áp lực liên tục từ tim và van, áp lực này đảm bảo rằng các tĩnh mạch mang máu đến tim và các động mạch vận chuyển nó ra

Cơ thể người: các hệ thống cơ quan

Các nhóm hệ thống cơ quan phối hợp với nhau để tạo ra các chức năng hoàn chỉnh, có 11 hệ thống cơ quan chính trong cơ thể

Atlas giải phẫu những xoang cạnh mũi (Sinus paranasales)

Xoang hàm là một hốc nằm trong thân của xương hàm trên, những thành của xoang có thể chỉ là những tấm xương mỏng

Atlas giải phẫu vùng mũi, các cơ, mạch máu và dây thần kinh

Mũi có bề mặt bên ngoài phủ bởi da, và bề mặt bên trong phủ bởi da-niêm mạc liên tiếp với niêm mạc hô hấp của các hốc mũi. Nằm trong bề dày, giữa hai bề mặt bên ngài

Tổng quan Atlas giải phẫu đầu và cổ

Đường giới hạn dưới của vùng cổ, phân cách cổ và ngực, là một đường bắt đầu từ đỉnh mỏm gai của đốt sống cổ thứ 7, kéo dài sang hai bên

Giải phẫu tiền đình ốc tai

Hòm nhĩ có hình dáng như một thấu kính lõm hai mặt, trên rộng dưới hẹp, nằm theo mặt phẳng đứng dọc nhưng hơi nghiêng để thành ngoài nhìn ra ngoài xuống dưới và ra trước.

Giải phẫu cơ quan thị giác

Ổ mắt là một hốc xương sâu, chứa nhãn cầu, các cơ, thần kinh, mạch máu, mỡ và phần lớn bộ lệ, có hình tháp 4 thành, nền ở trước

Giải phẫu các tuyến nội tiết

Tuyến nội tiết có thể là một cơ quan riêng biệt, cũng có thể là những đám tế bào tập trung trong một cơ quan khác, ví dụ đảo tụy ở tụy hoặc tế bào kẻ ở tinh hoàn

Giải phẫu các dây thần kinh gai sống

Các dây thần kinh gai sống cấu tạo gồm hai rễ: rễ trước là rễ vận động, rễ sau là rễ cảm giác, có thân tế bào cảm giác nằm ở hạch gai

Giải phẫu các đôi dây thần kinh sọ

Trong số các dây thần kinh sọ thì dây thần kinh khứu giác (I) và dây thần kinh thị giác, thật ra là phần phát triển dài ra của não bộ, nên khác với các dây thần kinh cảm giác

Giải phẫu hệ thần kinh tự chủ

Hệ thần kinh tự chủ được chia làm hai phần là phần giao cảm và phần đối giao cảm, hoạt động theo nguyên tắc đối nghịch nhau, Hệ thần kinh tự chủ có cấu tạo.

Giải phẫu đoan não

Chất trắng của bán cầu đại não chiếm tất cả các khoảng nằm giữa vỏ đại não với não thất bên và các nhân nền; gồm có 3 loại sợi: sợi toả chiếu, sợi liên hợp và sợi mép.

Giải phẫu gian não

Gian não là phần não phát sinh từ não trước, bị vùi vào giữa hai bán cầu đại não. Gian não bao gồm đồi não và vùng hạ đồi, quây quanh não thất III

Giải phẫu thân não tiểu não

Phần não sau phát triển với thành lưng bị toác rộng hình trám được gọi là trám não, bao gồm hành não, cầu não và tiểu não vây quanh não thất IV. Mặt khác cầu não, hành não, trung não lại nằm trên một trục

Giải phẫu tủy gai

Càng về sau, do tốc độ phát triển của cột sống nhanh hơn so với tuỷ gai, do đó tuỷ gai tận cùng ở vị trí bờ dưới đốt sống thắt lưng 1 hoặc bờ trên đốt sống thắt lưng 2

Đại cương giải phẫu hệ thần kinh

Hệ thần kinh là cơ quan có nhiệm vụ thực hiện sự thống nhất giữa cơ thể với môi trường bên ngoài. Điều phối tất cả hoạt động của cơ quan và môi trường bên trong cơ thể.

Giải phẫu đáy chậu và hoành chậu hông

Ở nữ giới tương tự như nam giới, tuy nhiên có âm đạo đi qua, tách cơ hành xốp và cơ này trở thành cơ khít âm đạo, đồng thời làm yếu đi khá nhiều cơ ngang sâu đáy chậu.

Giải phẫu phúc mạc

Phúc mạc bao bọc tất cả các cơ quan trong ổ bụng và hố chậu, lót mặt trong thành bụng, mặt dưới cơ hoành và mặt trên hoành chậu hông.

Giải phẫu cơ quan sinh sản nữ

Hai mặt của tử cung liên tiếp phía trên bởi đáy tử cung và gặp nhau ở hai bên và tạo nên bờ phải và bờ trái, đây là chổ bám của dây chằng rộng.

Giải phẫu cơ quan sinh sản nam

Tinh hoàn tạo ra tinh trùng và hóc môn nam giới. Một hệ thống ống dùng để chuyên chở và cất giữ tinh trùng để chờ đợi sự trưởng thành để cuối cùng phóng ra bên ngoài.

Giải phẫu bàng quang

Khi rỗng bàng quang nằm trong phần trước hố chậu, sau xương mu, trước các tạng sinh dục, trực tràng, trên hoành chậu, Khi căng bàng quang có hình cầu nằm trong ổ bụng, Ở trẻ em bàng quang nằm trong ổ bụng

Giải phẫu niệu quản

Có 3 chổ hẹp là ở khúc nối bể thận niệu quản, chổ bắt chéo với động mạch chậu và đoạn nội thành bàng quang, Niệu quản được chia ra làm 2 đoạn

Giải phẫu thận

Nhu mô thận gồm có hai phần là tuỷ thận được cấu tạo bởi nhiều khối hình nón gọi là tháp thận, đáy tháp quay về phía bao thận

Giải phẫu đại cương hệ tiết niệu sinh sản

Hai hệ tiết niệu và sinh sản có liên quan rất mật thiết với nhau về phương diện phôi thai cũng như giải phẫu học, Đặc biệt là hệ sinh sản luôn có sự tương đồng cũng như khác nhau giữa hai giới về các cơ quan và bộ phận của hệ này

Giải phẫu thần kinh và bạch mạch của ống tiêu hóa

Ống tiêu hoá cũng như gan và tuỵ được chi phối bởi các dây thần kinh lang thang, các dây thần kinh tạng lớn, tạng bé, tạng dưới và một số nhánh của các dây thần kinh gai sống cuối cùng.

Giải phẫu ruột già (đại tràng)

Ngoại trừ trực tràng, ruột thừa và ống hậu môn có hình dạng đặc biệt, các phần còn lại của ruột già có các đặc điểm về hình thể ngoài sau đây giúp ta phân biệt với ruột non.

Giải phẫu hỗng tràng và hồi tràng

Hỗng tràng và hồi tràng cuộn lại thành các cuộn hình chữ U gọi là quai ruột. Có từ 14 đến 16 quai. Các quai ruột đầu sắp xếp nằm ngang, các quai ruột cuối thẳng đứng.

Giải phẫu tá tràng và tụy

Tá tràng đưọc cấu tạo gồm 5 lớp như các phần khác của ruột non là lớp niêm mạc tiết ra nhiều men tiêu hóa để tiêu hóa thức ăn, đặc biệt ở thành trong của phần xuống

Giải phẫu gan

Trước khi đổ vào tá tràng, ống mật chủ cùng với ống tuỵ chính tạo nên bóng gan tuỵ, có cơ vòng bóng gan tuỵ ngăn không cho trào ngựợc dịch tá tràng vào ống mật chủ

Giải phẫu lách

Trong các bờ của lách, có bờ trước hay còn gọi là bờ trên có nhiều khía và sờ được khi lách lớn, nhờ vậy mà chúng ta có thể phân biệt lách với các tạng khác khi khám lách.

Giải phẫu dạ dày

Phần dạ dày dưới đáy vị, có giới hạn dưới là mặt phẳng xiên đi qua khuyết góc, Phần thân vị chứa các tuyến tiết ra Axít clorohydric HCl và Pepsinogene.

Giải phẫu thực quản

Về phương diện giải phẫu học, thực quản được chia làm 3 đoạn: đoạn cổ dài khoảng 3cm; đoạn ngực dài khoảng 20 cm và đoạn bụng dài khoảng 2 cm.

Giải phẫu hầu

Thanh hầu nằm sau thanh quản, từ bờ trên sụn nắp thanh môn đến bờ dưới sụn nhẫn, tương ứng từ đốt sống cổ thứ tư đến bờ dưới đốt sống cổ thứ sáu.

Giải phẫu ổ miệng

Ổ miệng được giới hạn phía trên là khẩu cái cứng, phía sau và khẩu cái mềm, phía dưới là sàn miệng, hai bên là má và môi, Phía trước ổ miệng thông với bên ngoài qua khe miệng, sau thông với hầu qua eo họng

Giải phẫu đại cương hệ tiêu hóa

Lớp niêm mạc là lớp biểu mô, tuỳ theo chức năng mà có loại biểu mô khác nhau, Ví dụ ở thực quản nơi dễ bị nhiệt độ gây tổn thương hay hậu môn nơi dễ bị kích thích

Giải phẫu mũi

Niêm mạc có nhiều mạch máu, tuyến niêm mạc và tổ chức bạch huyết có chức năng sưởi ấm, làm ẩm không khí, lọc bớt bụi và sát trùng không khí trước khi vào phổi

Giải phẫu đại cương hệ hô hấp

Ở động vật cấp cao như động vật có xương sống sự hô hấp gồm hai động tác hít vào và thở ra, Không khí từ bên ngoài vào phổi khi hít vào và ngược lại khi thở ra.

Giải phẫu mạch máu chi dưới

Đường đi của động mạch đùi bắt đầu từ giữa dây chằng bẹn đến vòng gân cơ khép, theo hướng một đường vạch từ trung điểm của gai chậu trước trên và củ mu đến củ cơ khép xương đùi.

Giải phẫu mạch máu chi trên

Vòng nối quanh ngực do động mạch ngực ngoài và động mạch cùng vai ngực nối với động mạch ngực trong và động mạch gian sườn trên của động mạch dưới đòn.

Giải phẫu động mạch đầu mặt cổ

Ðường đi và tận cùng: động mạch cảnh chung chạy lên dọc theo cơ ức đòn chũm, đến ngang mức bờ trên sụn giáp, tương ứng đốt sống cổ C4 thì chia hai nhánh tận.

Giải phẫu động mạch chủ

Ðộng mạch chủ xuống là đoạn tiếp nối từ cung động mạch chủ cho đến chỗ chia đôi, đường kính nhỏ hơn hai đoạn đầu, Ðộng mạch chủ xuống còn được chia thành hai phần nhỏ là động mạch chủ ngực và động mạch chủ bụng

Giải phẫu tim

Bên trái rãnh gian nhĩ là tâm nhĩ trái, có bốn tĩnh mạch phổi đổ vào, Tâm nhĩ trái liên quan với thực quản ở phía sau, nên khi tâm nhĩ trái lớn sẽ đè vào thực quản.

Đại cương giải phẫu hệ tuần hoàn

Máu nhiều carbonic sẽ tập trung vào các tiểu tĩnh mạch sau đó đổ về các tĩnh mạch lớn hơn cuối cùng đổ về tâm nhĩ phải của tim bằng hai tĩnh mạch chủ trên và dưới.

Giải phẫu cơ chi trên

Thần kinh chi phối cho các cơ trên chủ yếu phát sinh từ đám rối thần kinh cánh tay, Chức năng của các cơ này có tác dụng là vận động khớp vai.

Giải phẫu cơ thân mình

Thành bụng trước bên gồm ba cơ ở phía bên xếp thành ba lớp từ nông đến sâu: cơ chéo bụng ngoài, cơ chéo bụng trong.

Giải phẫu cơ đầu mặt cổ

Cổ được chia ra làm hai vùng mà ranh giới là bờ ngoài của cơ thang, Vùng sau là vùng cổ sau hay gọi là vùng gáy; vùng trước là vùng cổ trước thường hay gọi là vùng cổ.

Giải phẫu hệ cơ

Cơ được hỗ trợ bởi các phần phụ thuộc cơ giúp cho sự hoạt động của cơ thể thuận tiện hơn, các phần phụ thuộc đó là: mạc, bao hoạt dịch, túi hoạt dịch.

Giải phẫu xương khớp chi dưới

Mỗi ngón chân có ba xương: xương đốt ngón gần, đốt ngón giữa và đốt ngón xa. Ngoại trừ ngón I chỉ có hai xương là xương đốt ngón gần và đốt ngón xa

Giải phẫu xương khớp chi trên

Xương vai là một xương dẹt hình tam giác, gồm hai mặt, nằm phía sau bên của phần trên lồng ngực, Xương có hai mặt, ba bờ và ba góc.

Giải phẫu khớp của thân

Phần trung tâm gọi là nhân tủy, rắn hơn và rất đàn hồi, di chuyển được trong vòng sợi, thường nằm gần bờ sau đĩa gian đốt

Giải phẫu xương lồng ngực

Đầu trước của thân xương sườn nối với các sụn sườn ngoại trừ xương sườn 11 và 12 tự do nên hai xương sườn này được gọi là xương sườn cụt.

Giải phẫu cột sống

Nhìn trước sau cột sống trông thẳng đứng, nhưng nhìn nghiêng, cột sống có 4 đoạn cong lồi lõm xen kẽ nhau. đoạn cổ và đoạn thắt lưng cong lồi ra trước

Giải phẫu xương khớp đầu mặt

Hầu hết các xương đầu mặt được cấu tạo gồm hai bản xương đặc, bản trong và bản ngoài, hai bản ngăn cách ở giữa bằng một lớp xương xốp.

Đại cương về giải phẫu xương khớp

Xương đơn là xương mỗi ngừoi có một xương và các xương này ở trên trục của cơ thể, hai phần phải trái của xương đối xứng qua trục của nó cũng như trục của cơ thể.

Giải phẫu khí quản

Trong lòng khí quản, nơi phân đôi của khí quản nổi gờ lên ở giữa, gọi là cựa khí quản. Nhìn từ trên xuống, cựa khí quản hơi lệch sang bên trái

Giải phẫu thanh quản

Thanh quản được nuôi dưỡng bởi động mạch thanh quản trên là nhánh của động mạch giáp trên và động mạch thanh quản dưới là nhánh của động mạch giáp dưới.

Giải phẫu phổi và màng phổi

Mặt sườn có khe chếch bắt đầu từ ngang mức gian sườn 3 ở phía sau chạy xuống đáy phổi, chia phổi ra thành các thuỳ phổi.

Giải phẫu niệu đạo

Ðường đi: từ cổ bàng quang, niệu đạo đi thẳng xuống xuyên qua tiền liệt tuyến, qua hoành chậu và hoành niệu dục, sau đó uốn cong ra trước và lên trên ôm lấy bờ dưới khớp mu rồi vào dương vật tới quy đầu.

Giải phẫu cơ chi dưới

Ðùi được giới hạn phía trên bởi nếp lằn bẹn ở trước và lớp lằn mông ở sau, Phía dưới bởi một đường ngang phía trên nền xương bánh chè 3  khoát ngón tay.