Sử dụng thuốc giảm đau an thần trong cấp cứu hồi sức

2014-04-19 10:29 AM

Có nhiều loại thuốc giảm đau, nhưng tốt nhất nên dùng một vài loại và biết rõ tác dụng, liều lượng, tác dụng phụ và chống chỉ định của các thuốc này.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các phương pháp giảm đau

Nhiều bệnh nhân đến phòng Cấp Cứu trong cơn đau dữ dội. Hiểu biết về vị trí và tính chất của cơn đau rất quan trọng để chẩn đoán nguyên nhân. Giảm đau cũng là một phần chủ yếu trong điều trị.

Giảm đau chủ yếu bằng thuốc giảm đau, nhưng còn nhiều cách điều trị khác cũng hiệu quả để giảm đau. Nếu đau tăng lên ở bệnh nhân bị chấn thương có thể là triệu chứng của nhiễm trùng hay chấn thương mạch máu. Vẫn còn đau nhiều dù đã cố định nơi gẫy xương là gợi ý của chấn thương mạch máu, hội chứng chèn ép khoang hay do bột bó quá chật. Phản xạ loạn dưỡng giao cảm có thể gây đau rất dữ dội vài ngày sau khi bị một chấn thương nhẹ.

Bất động

Bất động ổ gẫy xương làm giảm đau và giảm nhu cầu thuốc giảm đau. Cho hít khí mê Entonox (hỗn hợp N2O 50%: O2 50%) để giảm đau khi đặt nẹp hay bó bột.

Kê cao

Chi bị chấn thương sưng nề gây đau và co cứng. Kê cao chi có tác dụng giảm phù nề, giảm đau và giúp bệnh nhân cử động lại sớm.

Chườm lạnh

Làm lạnh vùng bị phỏng ngay lập tức bằng nước lạnh có tác dụng giảm đau và chấm dứt tình trạng tiếp tục bị phỏng do nhiệt độ cao. Phỏng do acid hydrofluoric thường rất đau cần được làm lạnh lâu bằng nước đá. Đau do co thắt hay chấn thương bắp thịt có thể giảm đau bằng cách bọc túi nước đá lạnh trong khăn và chườm khoảng 15 phút mỗi lần.

Chườm nóng

Đau do trật, trẹo cổ, lưng, chân tay thường do co thắt bắp thịt. Giảm đau bằng cách chườm chai, túi nước nóng hay đèn hồng ngoại.

Băng bó

Đau khi phỏng nhẹ hay dập ngón thường bớt đau khi được băng bó đúng cách.

Gây tê

Gây tê giảm đau rất tốt trong trường hợp gẫy thân xương đùi hay chấn thương bàn tay, ngón tay.

Điều trị nguyên nhân

Nắn trật khớp khuỷu hay giải áp máu tụ dưới móng sẽ giảm đau ngay tức khắc mà không cần dùng thuốc giảm đau nào.

Thuốc giảm đau

Có nhiều loại thuốc giảm đau, nhưng tốt nhất nên dùng một vài loại và biết rõ tác dụng, liều lượng, tác dụng phụ và chống chỉ định của các thuốc này. Đa số bệnh viện đều có phác đồ giảm đau và giới hạn sự chọn lựa thuốc. Một số bệnh nhân đã dùng thuốc giảm đau có sẵn tại nhà. Do các thuốc giảm đau có tương tác với một số thuốc quan trọng khác nên phải tham khảo tự điển thuốc trước khi kê đơn thuốc. Chú ý hỏi kỹ về dị ứng thuốc và ghi rõ vào bệnh án. Trước khi cho uống aspirine hay các thuốc kháng viêm không steroid phải hỏi kỹ tiền căn khó tiêu hay loét dạ dày.

Paracetamol

Paracetamol có tác dụng giảm đau, hạ sốt, nhưng không có tác dụng kháng viêm và ít gây kích thích bao tử. Quá liều gây suy gan, suy thận

Liều: Người lớn: 0,5 - 1 g uống mỗi 4 - 6 giờ. Trẻ em 3 tháng - 1 tuổi: 60 - 120 mg; 1 - 5 tuổi: 120 - 150 mg; 6 - 12 tuổi: 250 - 500 mg. Lập lại mỗi 4 - 6 giờ, tối đa 4 lần trong ngày.

Paracetamol + Thuốc phiện

Phối hợp paracetamol với một liều nhỏ thuốc phiện được dùng rộng rãi để tăng tác dụng giảm đau. Tác dụng giảm đau không nhiều hơn paracetamol đơn thuần mà có nhiều tác dụng phụ hơn như táo bón, chóng mặt, đặc biệt ở người già.

Paracetamol 500 mg/ codein 30 mg

Paracetamol 325 mg/ dextropropoxyphene 32,5 mg.

Thuốc kháng viêm giảm đau không Steroid (NSAID)

Aspirine và các thuốc NSAID ức chế men cyclooxygenase (COX) làm ngừng tổng hợp prostaglandine từ acid arachidonic. Prostaglandine làm tăng nhậy cảm của đầu tận cùng thần kinh với kích thích đau. Prostaglandine có vai trò quan trọng trong cơ chế gây viêm, nóng và đau khi bị tổn thương mô.

Có 2 loại COX: COX-1 và COX-2. Phần lớn các thuốc NSAID ức chế đồng thời COX-1 và COX-2. Ức chế COX -1 gây ra các tác dụng phụ của thuốc NSAID. Các thuốc ức chế COX-2 được coi là ít tác dụng phụ trên dạ dày, thận, mạch máu.

Thuốc NSAID thường dùng trị đau cơ xương, có hay không có viêm. Trong lâm sàng nên dùng NSAID khi các phương pháp giảm đau không dùng thuốc (chườm nóng, lạnh, kê cao) và paracetamol không hiệu quả. NSAID gây kích thích bao tử, tiêu chảy, xuất huyết tiêu hóa, thủng dạ dày. Nguy cơ sẽ tăng cao nếu dùng liều cao, bệnh nhân > 60 tuổi và có tiền căn loét bao tử. NSAID gây tăng cơn suyễn, suy thận ở bệnh nhân bị suy tim, xơ gan, suy thận. Tướng tác thuốc với thuốc lợi tiểu, warfarine, lithium và một số thuốc khác. Nên uống thuốc NSAID sau khi ăn no để giảm bớt tác dụng phụ trên bao tử. Nếu bắt buộc phải dùng NSAID cho bệnh nhân có nguy cơ xuất huyết tiêu hóa cao phải dùng misoprostol để dự phòng.

Có nhiều loại thuốc NSAID và tất cả đều có thể gây các tác dụng phụ nặng, nhưng ibuprofen, diclofenac và naproxen tương đối an toàn. Chọn thuốc ức chế COX -2 vì có tác dụng giảm đau hiệu quả như diclofenac, ít bị tác dụng phụ trên dạ dày. Ức chế tiểu cầu không xảy ra với liều cao gấp 50 lần liều điều trị hiệu quả.

Thuốc NSAID chích dùng điều trị đau cơ xương (thí dụ đau thắt lưng cấp) hay cơn đau quặn thận, quặn gan cấp. Chống chỉ định và tác dụng phụ như đường uống. NSAID tiêm bắp rất đau và có thể gây áp xe vô trùng, vì vậy, đường uống và đường hậu môn được chuộng hơn. NSAID giảm đau tốt trong cơn đau quặn thận nhưng tác dụng chậm hơn pethidine tiêm mạch.

Thuốc NSAID dạng kem hay gel thoa da vùng đau cũng có tác dụng giảm đau nhưng không tốt bằng đường uống. Thuốc có thể bị hấp thu vào máu và gây tác dụng phụ như đường uống.

Các thuốc NSAID thường dùng

Ibuprofen

Là thuốc có tác dụng phụ ít nhất và rẻ tiền nhất trong các thuốc trên. Ibuprofen rất tốt khi dùng cho trẻ em để hạ sốt và giảm đau, đặc biệt là khi paracetamol không đủ hiệu quả. Liều 1,2-1,8 g/ngày, chia 3-4 liều. Trẻ em > 7 kg: 20 mg/kg/ngày, chia 3-4 liều.

Diclofenac (Voltarene)

50 mg uống mỗi 8 - 12 giờ, tĩnh mạch 75 mg trong 30 phút - 2 giờ hay tiêm bắp. Liều tối đa 150 mg/ngày

Naproxen

0,5 - 1 g/ngày chia 2 - 3 liều. Cơn gout cấp: 750 mg sau đó 250 mg mỗi 8 giờ đến khi hết đau.

Ketoprofen (Profenid)

100 mg pha trong 100 ml D5% hay NaCl 0,9% tĩnh mạch chậm 20 phút. Liều tối đa 300 mg/ngày trong 48 giờ. Chỉ dùng cho người lớn.

Tenoxicam (Tilcotil)

20 mg /ngày tĩnh mạch. Dùng cho người lớn.

Thuốc ức chế COX-2

Meloxicam (Mobic): 7,5 - 15 mg/ngày uống.

Rofecoxib (Vioxx): 12,5 - 50 mg /ngày uống.

Celecoxib (Celebrex): 100 - 200 mg/ngày uống.

Aspirine

Là thuốc giảm đau rất tốt trong trường hợp nhức đầu, đau cơ xương, đau bụng kinh. Thuốc còn có tác dụng hạ sốt và kháng viêm nhẹ. Aspirine có tác dụng ức chế tiểu cầu nên còn dùng làm thuốc chống kết dính tiểu cầu. Không dùng aspirine cho trẻ < 12 tuổi hay phụ nữ đang cho con bú vì nguy cơ bị hội chứng Reye. Liều: 300 - 1000 mg uống mỗi 4 - 6 giờ, tối đa 4 g/ngày.

Nefopam (acupam, panagesic)

Nefopam là thuốc giảm đau không thuộc nhóm á phiện, có cấu trúc hóa học không giống với các thuốc giảm đau khác. Nefopam dùng giảm đau sau mổ và trong ung thư. Thuốc không có tác dụng kháng viêm hay hạ sốt, không ức chế hô hấp, không làm chậm nhu động ruột. Tác dụng phụ: buồn nôn, vã mồ hôi, khó chịu, khô miệng, nhịp tim nhanh, hồi hộp, bí tiểu, bứt rứt.

Liều: người lớn: 10 - 20 mg tĩnh mạch chậm trong 5 phút hay tiêm bắp mỗi 4 - 6 giờ. Người già: 10 mg tĩnh mạch hay tiêm bắp x 3 lần/ ngày. Liều tối đa 120 mg/ngày. Uống: 30 - 90 mg x 3 lần/ngày.

Thuốc giảm đau họ thuốc phiện

Thuốc giảm đau họ thuốc phiện có tác dụng chủ vận (agonist) hay đối vận (antagonist) trên thụ thể thuốc phiện. Hai thụ thể quan trọng nhất là µ (mu) và k (kappa). Kích thích các thụ thể này bằng chất chủ vận đơn thuần sẽ cho tác dụng: giảm đau (µ, k), sảng khoái (µ), an thần (k), ức chế hô hấp (µ, k) và nghiện (µ). Một số thuốc có tác dụng chủ vận một phần, một số khác có tác dụng hỗn hợp vừa chủ vận vừa đối vận. Có thuốc chỉ có tác dụng đối vận và không có tác dụng giảm đau.

Các thuốc đồng vận đơn thuần

Morphine

Morphine là thuốc giảm đau tự nhiên được trích từ cây á phiện. Morphine dùng giảm đau cho các trường hợp đau nặng, đặc biệt trong chấn thương và nhồi máu cơ tim. Morphine làm dãn tĩnh mạch nên rất tốt để điều trị phù phổi cấp do suy tim trái. Morphine thường gây buồn nôn và ói mửa ở người lớn, nên cho kèm thuốc chống ói (metoclopramide 10 mg tĩnh mạch). Không cần dùng kèm thuốc chống ói cho trẻ < 10 tuổi.

Tác dụng phụ khác của morphine là gây buồn ngủ, táo bón, co nhỏ đồng tử (gây khó đánh giá biến chứng thần kinh ở bệnh nhân chấn thương). Suy hô hấp và tụt huyết áp có thể xảy ra nếu dùng liều cao. Các tác dụng phụ của morphine được hóa giải bởi naloxone.

Morphine có thể dùng qua đường uống, tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch, dưới da, khoang ngoài màng cứng hay khoang dưới nhện. Trong Cấp Cứu, thường dùng morphine tiêm tĩnh mạch 0,1 - 0,15 mg/kg (chọn liều từ từ 1 - 2 mg) hay tiêm bắp 0,2 - 0,3 mg/kg. Giảm đau sau 10 - 15 phút nếu tiêm tĩnh mạch và sau 30-45 phút nếu tiêm bắp, kéo dài 1 - 4 giờ. Trẻ em: 100 - 200 µg/kg tĩnh mạch.

Bệnh nhân tự cho thuốc giảm đau (patient-controlled analgesia) qua bơm tiêm điện rất tốt để giảm đau sau mổ, nhưng không phù hợp trong Cấp Cứu.

Morphine tiêm bắp cho tác dụng giảm đau chậm và không tốt bằng tiêm tĩnh mạch, không nên dùng đường này, nhất là cho bệnh nhân bị sốc. Morphine có thể dùng tiêm bắp cho trẻ em cần giảm đau mạnh mà không cần truyền tĩnh mạch (thí dụ: thay băng phỏng).

Morphine có thể dùng qua đường uống: trẻ em 1 - 5 tuổi: tối đa 5 mg; trẻ em 6 - 12 tuổi: 5 - 10 mg.

Fentanyl

Fentanyl là thuốc phiện tổng hợp, có tác dụng giảm đau rất mạnh, tác dụng nhanh và ngắn, thường được các bác sĩ gây mê dùng. Tác dụng như morphine, nhưng do fentanyl tan trong mỡ cao nên ngấm rất nhanh vào hệ thần kinh trung ương, đạt giảm đau sau 5 phút khi tĩnh mạch. Dùng liều cao thì thời gian tác dụng của fentanyl sẽ tăng vì thuốc được tái phóng thích từ mô mỡ vào máu. Khi chích nhanh, fentanyl gây co cứng thành ngực và ngưng thở. Co cứng cơ ngực không hóa giải được bằng naloxone, nên phải cho thuốc dãn cơ, đặt nội khí quản để thông khí. Fentanyl có tính ổn định huyết động cao do không gây phóng thích histamine nên ít gây tụt huyết áp. Liều: 1 - 2 µg/kg tĩnh mạch ở bệnh nhân tự thở hay phẫu thuật ngắn khoảng 30 - 40 phút.

Pethidine

Pethidine là thuốc giảm đau nhanh nhưng ngắn và yếu hơn morphine. Đôi khi dùng giảm đau trong cơn đau quặn gan, quặn thận thay morphine (vì ít gây co thắt cơ trơn). Pethidine gây buồn nôn, ói và tụt huyết áp nhiều hơn morphine. Chất chuyển hóa là normeperidine gây kích thích hệ thần kinh trung ương làm run tay, rung cơ, co giật, không hóa giải được bằng naloxone. Normeperidine thải qua thận nên sẽ bị tích tụ nếu dùng thuốc lập lại trên người suy thận. Pethidine tĩnh mạch chậm, chọn liều nếu cần: người lớn 50 mg tĩnh mạch hay tiêm bắp (50-100 mg) nhưng tác dụng kém hơn tĩnh mạch. Dùng kèm với thuốc chống ói.

Tramadol

Tramadol là thuốc phiện chủ vận yếu trên thụ thể µ và ức chế sự bắt lại noradrenaline và phóng thích 5-hydroxytriptamine (5-HT). Tiêm tĩnh mạch liều 1 - 2 mg/kg, có tác dụng giảm đau mạnh như pethidine. Tramadol ít ức chế hô hấp hơn morphine. Tác dụng phụ của tramadol là buồn nôn, nôn ói, khô miệng, vã mồ hôi, bí tiểu. Ít bị táo bón hơn các thuốc phiện khác.

Ketamine

Ketamine là thuốc gây mê phân ly có thể tiêm bắp và tĩnh mạch được. Khi dùng ở liều nhỏ hơn liều gây mê, ketamine có tác dụng giảm đau mạnh. Trong bệnh viện, thuốc ít được dùng cho người lớn vì gây ảo giác khi thức dậy, nhưng ít gây ảo giác cho trẻ em. Ketamine có ích khi dùng ngoài bệnh viện, đặc biệt là khi cần gây mê để mang bệnh nhân bị kẹt ra hay đoạn chi khẩn hoặc các thủ thuật ngắn gây đau (thay băng phỏng, bất động xương gẫy).

Phản xạ bảo vệ đường thở được duy trì tốt hơn với ketamine so với các thuốc mê khác. Tuy nhiên, tắc nghẽn đường thở và hít chất ói vẫn có thể xảy ra. Ức chế hô hấp ít xảy ra nếu dùng ở liều bình thường, ngoại trừ khi chích thuốc quá nhanh. Ketamine có tính dãn phế quản nên tốt khi dùng cho người bệnh suyễn. Ketamine kích thích hệ tim mạch, gây nhịp tim nhanh và cao huyết áp, tăng áp lực nội sọ, tránh dùng cho bệnh nhân chấn thương sọ não. Ketamine không nên dùng cho người cao huyết áp và nghiện rượu. Ao giác sẽ ít xảy ra nếu cho thêm một liều nhỏ midazolam hay diazepam.

Liều: Gây mê: 1 - 2 mg/kg tĩnh mạch chậm, có tác dụng sau 2 - 7 phút, kéo dài 5 - 10 phút. Tiêm bắp 5 - 10 mg/kg, tác dụng sau 4 - 10 phút, kéo dài 12 - 25 phút. An thần giảm đau: 0,2 - 0,5 mg/kg tĩnh mạch.

Nitrous oxide

Entonox là hỗn hợp 50% N2O và 50% O2, được giữ trong bình khí nén màu xanh, đỉnh màu trắng. N2O là khí không màu, có mùi ngọt, không kích thích đường hô hấp. N2O khuếch tán nhanh hơn nitrogen vào các khoang chứa không khí, nên chống chỉ định dùng cho bệnh nhân bị tràn khí màng phổi chưa được dẫn lưu ( vì gây tràn khí màng phổi với áp lực) hay sau khi lặn (gây tăng nguy cơ bị hội chứng giải ép).

Entonox được kiểm soát qua van, hít vào qua mặt nạ hay ống miệng, do bệnh nhân cầm. N2O cho tác dụng giảm đau rất nhanh và hết tác dụng sau vài phút, nên thường dùng chăm sóc ở ngoài bệnh viện. Trong Cấp Cứu, N2O dùng để giảm đau ban đầu, như đặt nẹp chấn thương chi, hay các thủ thuật nhỏ như nắn trật khớp ngón tay và xương bánh chè.

Giảm đau trong các trường hợp đặc biệt

Đa chấn thương

Thường cho morphine tĩnh mạch hoặc là tê vùng kèm với việc bất động nơi gẫy xương để giảm đau và giảm mất máu.

Chấn thương sọ não

Giảm đau rất quan trọng cho bệnh nhân chấn thương sọ não vì đau và dẫy dụa làm tăng áp lực nội sọ gây nặng thêm tổn thương não thứ phát sau chấn thương. Nhức đầu có thể cho paracetamol, diclofenac hay codeine. Nếu nhức đầu ngày càng tăng thêm, làm CTscan để tìm máu tụ nội sọ. Tránh dùng thuốc phiện mạnh, vì gây an thần và ức chế hô hấp, nhưng nếu đau quá có thể cho từng liều nhỏ morphine. Khi cần đánh giá thần kinh, có thể hóa giải thuốc bằng naloxone. Gây tê thần kinh đùi rất tốt khi bệnh nhân bị chấn thương sọ não kèm gẫy xương đùi vì giảm đau rất tốt mà không cần dùng đến morphine.

Trẻ em khi bị chấn thương nhẹ đôi khi không than nhức đầu, nhưng trẻ thấy dễ chịu hơn nếu cho paracetamol trong 24 giờ.

Chấn thương lồng ngực

Chấn thương lồng ngực thường rất đau. Giảm đau tốt sẽ giúp giảm suy thở và biến chứng như viêm phổi hay suy hô hấp. Cho thở oxy nồng độ cao ngay và đo SaO2 và khí máu động mạch. Cho morphine tĩnh mạch từng liều nhỏ và theo dõi hô hấp. Gây tê thần kinh liên sườn giảm đau rất tốt khi gẫy xương sườn nhưng có thể gây tràn khí màng phổi, chỉ làm tại Bệnh viện. Chấn thương ngực nặng cần nhập vàp Phòng Săn sóc đặc biệt, giảm đau bằng catheter trong khoang ngoài màng cứng đoạn ngực có thể giúp tránh thở máy. Tuy nhiên, trước khi gây tê ngoài màng cứng phải chụp X quang cột sống ngực để xem có gãy cột sống hay không.

Trẻ em

Khi bị chấn thương đôi khi trẻ em bị sợ hãi nhiều hơn đau. Giải thích, an ủi rất quan trọng và khi cần, phải cho giảm đau.

Morphine tĩnh mạch liều nhỏ có thể dùng trong chấn thương nặng nhưng hết sức cẩn thận khi có chấn thương đầu.

Morphine tiêm bắp cho giảm đau tốt khi bị phỏng nhẹ

Tê thần kinh đùi khi có gãy xương đùi.

Tê gốc ngón tay giảm đau rất tốt khi bị dập ngón tay, nên gây tê trước khi chụp X quang để khi trẻ quay lại thì có thể rửa và thay băng ngón tay mà trẻ không đau.

Entonox (N2O 50%:O2 50%) cho giảm đau mà không cần chích.

Dùng các thuốc giảm đau uống như paracetamol, ibuprofen hoặc morphine uống.

Đau bụng cấp

Một số bác sĩ không cho thuốc giảm đau khi đau bụng cấp vì sợ khó chẩn đoán. Tuy nhiên, không cho thuốc giảm đau cho bệnh nhân đau bụng cấp là thiếu nhân đạo và không cần thiết. Giảm đau đầy đủ cho phép bệnh nhân kể rõ bệnh sử và dễ khám bụng và chẩn đoán hơn: đau và co cứng cơ thành bụng sẽ khu trú hơn, dễ rờ thấy khối u hơn. Không thể chụp X quang chất lượng tốt khi bệnh nhân đau lăn lộn do đau quặn thận hay thủng dạ dày.

Morphine tĩnh mạch từng liều nhỏ rất tốt khi đau bụng dữ dội. Thuốc kháng viêm không steroid và pethidine dùng cho cơn đau quặn gan, quặn thận.

Đau răng

Đau răng hay đau sau nhổ răng nên dùng aspirine, thuốc kháng viêm không steroid, paracetamol. Không dùng codeine vì làm đau tăng thêm. Dẫn lưu các áp xe răng là cách tốt nhất vì hết đau ngay.

Thuốc an thần

Thuốc an thần thường được dùng trong Cấp Cứu để giúp bệnh nhân chịu đựng các thủ thuật đau như nắn trật khớp. Thuốc an thần ức chế hệ thần kinh trung ương đủ để làm thủ thuật nhưng bệnh nhân vẫn tỉnh và làm theo yêu cầu. Khi được chỉ định, thuốc an thần thường dùng kèm với thuốc giảm đau và gây tê nhưng không được dùng thuốc an thần để thay cho giảm đau và gây mê. Thuốc an thần uống thường được dành cho trẻ em. Tránh dùng đường tĩnh mạch cho trẻ em vì giới hạn giữa an thần và gây mê rất gần (dành cho bác sĩ gây mê hối sức nhi).

Đánh giá nguy cơ

Nguy cơ chính là ức chế hô hấp, giảm cung lượng tim, hít chất ói. Bệnh nhân có nguy cơ cao là người già, béo phì, có bệnh phổi. Bệnh nhân bệnh gan thận phải giảm liều. Tốt nhất là bệnh nhân nhịn ăn uống. Hỏi tiền căn bệnh, dị ứng thuốc, các thuốc đang dùng, giờ ăn uống lần cuối và ghi rõ vào hồ sơ. Ghi lại mạch, huyết áp. Nếu thấy nghi ngờ, nên tạm hoãn cho thuốc an thần và mời bác sĩ gây mê giúp đỡ.

Chuẩn bị và theo dõi bệnh nhân

Bệnh nhân phải nằm trên xe có thể hạ đầu thấp. Máy hút, phương tiện cấp cứu và thuốc sẵn sàng. Thuốc an thần chỉ được sử dụng bởi bác sĩ đã được huấn luyện về cấp cứu và phải có người phụ giúp (bác sĩ hoặc điều dưỡng).

Bệnh nhân cho thuốc an thần đường tĩnh mạch phải có đặt kim luồn nhỏ trong tĩnh mạch, cho thở oxy và theo dõi SaO2. Theo dõi ECG nếu có vấn đề tim mạch.

Các thuốc an thần thường dùng

Các thuốc an thần đều có tác dụng gây mê nếu dùng liều cao. Nhưng nếu dùng liều thấp sẽ có tác dụng an thần rất tốt.

Midazolam

Midazolam là thuốc benzodiazepine tốt nhất vì tác dụng ngắn. Midazolam có thời gian bán hủy khoảng 2 giờ. Người lớn liều ban đầu là 2 mg midazolam tĩnh mạch trong 30 giây. Sau 2 phút, nếu độ an thần không đủ, cho thêm từng liều nhỏ 0,5 - 1 mg (pha loãng thuốc 1 mg/ml). Khi an thần tốt, bệnh nhân buồn ngủ và nói lè nhè nhưng vẫn làm đúng yêu cầu. Liều thường dùng là 2,5 - 7,5 mg. Người già liều thấp, khởi đầu 1 mg. Liều thường dùng là 1 - 2 mg.

Trẻ em dùng midazolam uống 0,2 mg/kg (pha midazolam trong xirô) hay bơm qua hậu môn 0,4 mg/kg (pha loãng liều midazolam trong 10 ml nước NaCl 0,9% bơm vào hậu môn qua ống thông nhỏ). Nếu cần giảm đau cho paracetamol.

Diazepam

Diazepam không thích hợp cho bệnh nhân ngoại trú vì tác dụng kéo dài, thời gian bán hủy là 72 giờ, và chất chuyển hóa có hoạt tính. Tuy nhiên, đây là thuốc được chọn để cắt cơn động kinh, co giật. Liều 10 mg tĩnh mạch chậm trong 2-3 phút.

Nhóm thuốc phiện

Pethidine có thể dùng liều nhỏ tiêm tĩnh mạch phối hợp với midazolam, nhưng sẽ có tác dụng cộng hưởng làm tăng nguy cơ suy hô hấp. Cho pethidine liều nhỏ trước, sau đó cho từng liều nhỏ midazolam từ từ.

Hóa giải

Thuốc hóa giải flumazenil (cho benzodiazepine) và naloxone (thuốc phiện). Khi bệnh nhân bị suy hô hấp, giữ thông đường thở và giúp thở quan trọng hơn là thuốc hóa giải. Flumazenil và naloxone có thời gian tác dụng ngắn hơn các thuốc mà chúng hóa giải nên vẫn phải theo dõi sát bệnh nhân sau khi cho thuốc hóa giải.

Naloxone là thuốc đối vận cạnh tranh với thuốc phiện tại thụ thể µ, dùng để hóa giải suy hô hấp do thuốc phiện. Khi dùng cho người nghiện thuốc phiện, naloxone gây hội chứng cai thuốc. Naloxone không hóa giải được sự co cứng cơ thành ngực gây ra do fentanyl. Liều tĩnh mạch khởi đầu là 0,1-0,2 mg mỗi 1-2 phút cho đến khi đạt tác dụng mong muốn, tác dụng kéo dài 30-45 phút.

Flumazenil là thuốc đối vận cạnh tranh với benzodiazepine, dùng để hóa giải suy hô hấp do benzodiazepine, chứ không dùng để “đánh thức” bệnh nhân. Liều 0,1-0,2 mg tĩnh mạch mỗi 1-2 phút đến khi đạt tác dụng mong muốn.

Tiêu chuẩn ra viện sau khi dùng thuốc an thần

Dấu hiệu sống ổn định.

Có thể tự đi lại mà không cần người đỡ.

Uống nước không ói hay chỉ buồn nôn nhẹ.

Có người lớn ở bên cạnh để theo dõi tại nhà.

Bệnh nhân không được lái xe, vận hành máy móc, ra quyết định quan trọng, uống rượu/ 24 giờ.

Gây mê toàn thân trong cấp cứu

Gây mê toàn thân trong Cấp Cứu cần thiết trong các tình huống sau:

Tiểu phẫu (dẫn lưu áp xe, nắn xương gẫy).

Sốc điện chuyển nhịp tim.

Giữ thông đường thở (chấn thương mặt, phỏng, viêm tiểu thiệt).

Suy hô hấp (suyễn, viêm phế quản mãn tính tắc nghẽn, chấn thương ngực).

Bảo vệ đường thở và kiểm soát thông khí sau chấn thương sọ não và giữ yên bệnh nhân để làm CTscan.

Mổ khẩn cấp (vỡ thai ngoài tử cung, chấn thương bụng ngực)

Gây mê trong cấp cứu gây khó khăn cho bác sĩ gây mê và nguy hiểm cho bệnh nhân vì không có thời gian chuẩn bị, dạ dày đầy gây nguy cơ hít chất ói. Gây mê thường do bác sĩ gây mê đảm trách, nhưng các bác sĩ khác cần có hiểu biết về gây mê để phối hợp và giúp đỡ khi cần.

Chuẩn bị trước mổ

Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ để gây mê an toàn. Nếu đủ thời gian, nên chuẩn bị bệnh nhân trước khi gặp bác sĩ gây mê để hẹn mổ. Tuy nhiên, nếu cần gây mê khẩn nên gọi bác sĩ gây mê ngay. Bảng câu hỏi cần hỏi bệnh nhân trước khi gây mê để biết về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.

Đánh giá nguy cơ phẫu thuật theo ASA (The American Society of Anesthesiologist)

ASA 1: bệnh nhân khỏe mạnh và không có bệnh hệ thống.

ASA 2: bệnh nhân có bệnh hệ thống nhẹ và trung bình, nhưng không ảnh hưởng đến sinh hoạt.

ASA 3: bệnh nhân có bệnh hệ thống nặng gây giới hạn sinh hoạt của bệnh nhân (suy tim ứ huyết, suy hô hấp mãn).

ASA 4: Bệnh nhân có bệnh hệ thống nặng, đe dọa sinh mạng của bệnh nhân (viêm phế quản nặng, suy gan nặng).

ASA 5: Bệnh nhân hấp hối không sống quá 24 giờ.

Nguy cơ bị biến chứng sau mổ tỉ lệ với độ ASA.

Xét nghiệm trước mổ

Lam các xét nghiệm trước mổ tùy theo tình trạng sức khỏe bệnh nhân và độ nặng cuộc mổ. Công thức máu, Hb khi cuộc mổ có nguy cơ mất máu nhiều, bệnh nhân xanh xao thiếu máu. Xét nghiệm đông máu khi có nghi ngờ bất thường đông máu. Xét nghiệm sinh hóa khi có bệnh lý gan thận, tiểu đường hay bệnh nhân trên 60 tuổi. ECG khi có bệnh lý tim mạch, ở nam trên 40 tuổi, nữ trên 55 tuổi. Phim phổi thẳng khi có vấn đề hô hấp và bệnh nhân sống trong vùng có bệnh lao. Làm xét nghiệm thử thai cho các phụ nữ trẻ trong độ tuổi sinh sản khi có đau bụng cấp.

Chuẩn bị bệnh nhân trước khi gây mê

Trước khi gây mê, bệnh nhân phải nhịn uống ít nhất 4 giờ và nhịn ăn 6 giờ. Giải thích cho bệnh nhân vì sao phải nhịn ăn uống trước khi gây mê. Tuy nhiên, nhịn đói cũng không bảo đảm dạ dày trống, vì đau, có thai, dùng thuốc phiện sẽ làm chậm nhu động ruột và sự làm trống dạ dày. Nếu bệnh nhân bị đau, cho thuốc giảm đau và thuốc chống ói sau khi hỏi ý kiến bác sĩ gây mê. bệnh nhân bị trào ngược dạ dày – thực quản cần cho thuốc kháng acid dự phòng (Td, ranitidine tĩnh mạch).

Giải thích rõ về cuộc mổ và gây mê cho bệnh nhân và thân nhân, ký giấy cho phép mổ. Ghi tên bệnh nhân trên băng đeo tay. Lấy răng giả, kính sát tròng ra.

Tỉnh mê và tiêu chuẩn ra viện sau khi gây mê

Khi mổ xong, đặt bệnh nhân ở tư thế an toàn và có điều dưỡng theo dõi liên tục cho đến khi bệnh nhân tỉnh mê. Bác sĩ gây mê phải ở bên cạnh bệnh nhân cho đến khi tri giác hồi phục hoàn toàn và đường thở thông. Tiêu chuẩn ra viện tương tự như khi dùng thuốc an thần.

Cần dặn bệnh nhân không lái xe, vận hành máy móc, ra quyết định quan trọng hay uống rượu trong 24 giờ.

Gây mê trong trường hợp khẩn cấp

Gây mê và đặt nội khí quản khẩn khi cần bảo vệ đường thở và bảo đảm thông khí cho bệnh nhân chấn thương sọ não hay đa chấn thương. Vì nguy cơ hít chất ói rất lớn nên phải bảo vệ đường thở ngay bằng ống nội khí quản có túi hơi (dùng ống không có túi hơi cho trẻ nhỏ). Nếu cố gắng đặt ống nội khí quản khi bệnh nhân còn phản xạ vùng hầu sẽ gây ói và hít chất ói. Gây mê trước khi đặt ống nội khí quản rất quan trọng trong chấn thương sọ não vì làm hạn chế sự tăng áp lực nội sọ.

Khi bệnh nhân có dạ dày đầy phải dùng phương pháp đặt ống nội khí quản nhanh.

Kỹ thuật đặt ống nội khí quản nhanh

Kiểm tra thuốc và dụng cụ sẵn sàng: máy hút, bóng và mặt nạ, đèn soi thanh quản, ống nội khí quản, cây thông nòng, ống chích, van, ống nối. Xe hay bàn có thể hạ thấp đầu.

Gắn máy monitoring (ECG và máy đo SaO2 qua mạch nẩy) và một đường truyền tĩnh mạch.

Giải thích cho bệnh nhân nếu được.

Bảo vệ cột sống cổ cho tất cả bệnh nhân bị chấn thương: cần một người phụ tá để giữ cố định đầu bệnh nhân thẳng trục. Trong trường hợp khác, có thể dùng gối kê đầu và cổ để dễ đặt.

Nếu được, cho bệnh nhân tự thở oxy 100% qua mặt nạ trong 3 phút. Nếu thở kém, bóp bóng thông khí qua mặt nạ oxy 100% trong 2 phút với người phụ tá nhấn sụn nhẫn: đè sụn nhẫn bằng ngón trỏ và ngón cái trong khi dùng bàn tay kia đỡ dưới cổ.

Cho thuốc dẫn đầu thiopental 2 - 5 mg/kg (tùy thể trạng bệnh nhân). Sau khi chích thuốc dẫn đầu người phụ tá bít thực quản bằng cách đè sụn nhẫn liên tục cho đến khi đặt xong ống nội khí quản (nghiệm pháp Sellick).

Chích thuốc dãn cơ suxamethonium 1,5 mg/kg.

Giữ chặt mặt nạ cho đến khi thuốc mê và thuốc dãn cơ có tác dụng. Đặt ống nội khí quản và bơm túi hơi lên ngay.

Kiểm tra khí vào đều hai bên phổi. Ngưng đè sụn nhẫn. Cố định ống nội khí quản.

Các thuốc sử dụng trong gây mê

Thuốc mê tĩnh mạch

Các thuốc mê tĩnh mạch dùng để dẫn đầu gây mê, để làm các thủ thuật ngắn (như sốc điện chuyển nhịp tim), điều trị cơn động kinh không đáp ứng với các thuốc chống động kinh khác, hay để gây mê tĩnh mạch hoàn toàn, và an thần khi thở máy. Chống chỉ định khi bệnh nhân bị tắc đường hô hấp trên hay bị giảm thể tích máu.

Thiopental

Thiopental là barbituric, và là thuốc được dùng nhiều nhất. Thiopental là thuốc dạng bột và chỉ pha ngay sau khi dùng thành dung dịch 2,5% (25 mg/ml). Liều dẫu đầu ở người lớn là 5 mg/kg (trẻ em 2 - 7 mg/kg). Dẫn đầu gây mê nhanh và êm dịu trong vòng 20 giây, ngoại trừ trường hợp mà tuần hoàn não bị chậm lại như người già, giảm thể tích tuần hoàn hay bệnh tim. Tri giác hồi phục sau 4 - 15 phút.

Tụt huyết áp do ức chế cơ tim và dãn tĩnh mạch. Tụt huyết áp càng nặng khi có giảm thể tích tuần hoànhay giảm dự trữ tim.

Ngưng thở do ức chế hô hấp.

Là thuốc chống động kinh rất mạnh. Làm giảm nhu cầu chuyển hóa não, giảm lưu lượng máu não và giảm áp lực nội sọ. Nếu chích thuốc ra ngoài mạch máu gây đỏ da và nếu chích nhầm vào động mạch gây hoại tử chi.

Etomidate

Etomidate gây tụt huyết áp ít hơn các thuốc mê khác và tỉnh mê nhanh sau 4- 8 phút. Tuy nhiên, khi chích tĩnh mạch bị đau và bệnh nhân có những cử động cơ ngoại ý. Etomidate không có tác dụng tích tụ, ngay cả sau vài liều lập lại. Thuốc làm giảm nhẹ cung lượng tim, ít gây dãn mạch, ít phóng thích histamine. Etomidate được chọn để khởi mê cho bệnh nhân có bệnh lý tim mạch vì ít gây thay đổi huyết áp. Có tác dụng ức chế tuyến thượng thận tiết cortisol nên không truyền tĩnh mạch kéo dài. Liều: 0,3 mg/kg

Propofol

Propofol rất tốt cho bệnh nhân mổ về trong ngày vì tỉnh mê nhanh sau 4 - 7 phút với chất lượng tốt, không bị buồn nôn và nôn sau gây mê. Thuốc gây đau khi chích và có thể bị mạch chậm. Bệnh nhân có thể có cử động ngoại ý. Liều: khởi mê 2 - 2,5 mg/kg

Tụt huyết áp do dãn mạch.

Ngưng thở sau khi dẫn đầu, kéo dài 45 giây.

Ức chế hô hấp. Ức chế sớm phản xạ thanh quản nên ít bị co thắt thanh quản.

Giảm nhu cầu chuyển hóa não, giảm áp lực nội sọ, giảm lưu lượng máu não.

Có tác dụng dãn cơ nhất là khi truyền tĩnh mạch liên tục để duy trì gây mê.

Ketamine dùng cho bệnh nhân bị suyễn hay tụt huyết áp nặng. Liều dẫn đầu: 1 - 2mg/kg tĩnh mạch.

Thuốc dãn cơ

Thuốc dãn cơ khử cực

Suxamethonium là thuốc dãn cơ khử cực có tác dụng ngắn, dùng để đặt nội khí quản nhanh. Thuốc gắn vào thụ thể nicotinic của acetylcholine trên tấm động thần kinh-cơ, gây khử cực màng tế bào cơ vân, gây rung cơ sau đó cơ bị liệt mềm. Sau đó, thuốc được thủy phân bởi men pseudocholinesterase trong plasma và hoạt động cơ phục hồi lại. Liều 1-1,5 mg/kg gây rung cơ và liệt cơ trong vòng 40-60 giây, kéo dài 4-6 phút. Suxamethonium gây nhịp tim chậm do cường phó giao cảm, nên cần cho kèm atropine. Thuốc gây tăng áp lực nội sọ, tăng nhãn áp. Chống chỉ định khi tăng kali máu, phỏng, liệt hai chân hay chấn thương do vùi lấp vì gây tăng kali máu nếu dùng suxamethonium trong vòng 5-120 ngày sau chấn thương.

Thuốc dãn cơ không khử cực

Các thuốc dãn cơ không khử cực gắn vào thụ thể của acetylcholine trên tấm động thần kinh-cơ va ngăn cản không cho acetylcholine gắn vào thụ thể nên làm dãn cơ mà không gây rung cơ, Thời gian tiềm phục dài 1,5-3 phút, kéo dài 30-45 phút tùy theo thuốc và liều dùng. Hóa giải bằng thuốc kháng cholinesterase. Neostigmine liều 2,5 mg cho người lớn và phải cho kèm atropine để tránh mạch chậm.

Atracurium

Atracurium là thuốc được chọn cho bệnh nhân suy thận, suy gan do thuốc bị hủy tự nhiên ở pH và nhiệt độ sinh lý (con đường Hoffman), tác dụng thuốc kéo dài khi bệnh nhân bị hạ thân nhiệt. Atracurium có tính phóng thích histamine nhưng chỉ gây đỏ da, ít gây tụt huyết áp. Liều: 0,5 mg/kg.

Vecuronium

Vecuronium có tính ổn định tim mạch cao, không gây phóng thích histamine. Thuốc thải qua mật. Liều: 0,1 mg/kg.

Rocuronium

Vecuronium là thuốc dãn cơ trung bình, có tính ổn định tim mạch cao. Sau liều 0,6 mg/kg, dãn cơ sau 60 giây (gần bằng suxamethonium), kéo dài 20-30 phút. Rocuronium được dùng cho bệnh nhân cần đặt nội khí quản nhanh mà không dùng được suxamethonium.

Thuốc mê hô hấp

Thuốc mê hô hấp dùng để giảm đau, dẫn đầu gây mê (khibị tắc đường hô hấp trên, khi chống chỉ định thuốc mê tĩnh mạch), duy trì mê.

Nitrous oxide (N2O) (xem phần thuốc giảm đau).

Các thuốc mê họ halogen

Halothane là thuốc mê bốc hơi, không màu, có mùi ngọt, ít kích thích đường hô hấp. Thường dùng dẫn đầu gây mê cho trẻ em ở nồng độ 2-4%, duy trì mê 0,5-1,5% phối hợp với N2O 70%: O2 30% cho bệnh nhân tự thở, điều trị cơn co thắt phế quản trong lúc mổ. Halothane gây tụt huyết áp, mạch chậm. Gây loạn nhịp tim khi dùng kèm với adrenaline. Có nguy cơ khởi phát tăng thân nhiệt ác tính. Halothane có thể gây viêm gan do thuốc có độc tính trên gan. Tránh gây mê lập lại liên tiếp với halothane (khoảng cách tối thiểu an toàn là 3 tháng).

Isoflurane là thuốc mê bốc hơi, không màu, có mùi khó chịu, gây kích thích đường hô hấp nên không thể dùng để dẫn đầu gây mê. Duy trì mê 1-1,5% phối hợp với O2 hay N2O: O2. Tỉnh mê nhanh, chất lượng tỉnh mê tốt nên thường dùng cho gây mê về trong ngày. Isoflurane là thuốc được chọn để mổ sọ não vì ít có tác dụng trên lưu lượng máu não và áp lực nội sọ. Ít độc tính trên gan nên được dùng cho phẫu thuật bệnh nhân suy gan.

Sevoflurane là khí không màu, có mùi ngọt, ít kích thích đường hô hấp. Sevoflurane là thuốc mê yếu nhưnh nhờ tính ít hòa tan nên thuốc rất dễ dùng vì dẫn đầu nhanh, dễ thay đổi độ mê vì tỉnh mê nhanh. Sevoflurane ít tác dụng trên mạch và nhịp tim, ít độc tính, không gây tăng áp lực nội sọ. Sevoflurane được chọn để gây mê cho các ca mổ ngắn, về trong ngày, dẫn đầu gây mê cho trẻ em. Không được dùng sevoflurane trong vòng kín lưu lượng thấp.

Đặt nội khí quản khó

Đặt nội khí quản khó có thể do dụng cụ, bệnh nhân, hoàn cảnh lúc đặt nội khí quản, thiếu kinh nghiệm.

Dụng cụ

Các dụng cụ phải đầy đủ và trong tình trạng hoạt động tốt. Chuẩn bị thêm bộ dụng cụ mở màng sụn giáp nhanh.

Bệnh nhân

Bệnh nhân khó đặt nội khí quản khi dị dạng hay phù nề hàm mặt, răng hô, hạn chế mở miệng do cứng cơ hàm hay chấn thương, giảm cử động của cổ hay gẫy cột sống cổ, bất thường của nắp thanh môn hay thanh quản, hẹp khí quản, di lệch khí quản, máu, chất ói và dị vật trong khí đạo.

Hoàn cảnh và kinh nghiệm

Đặt nội khí quản trong hoàn cảnh chuẩn bị tốt tại phòng mổ dễ hơn là trong phòng Cấp Cứu hay ngoài BV. Có người phụ tá có kinh nghiệm. Thực hành đều đặn trên mô hình.

Thực hành

Trước khi đặt nộikhí quản, nên thông khí với bóng và mặt nạ. Hít một hơi thở sâu khi bắt đầu đặt: nếu không đặt được nội khí quản khi bạn bắt đầu thở lại nên lấy đèn ra và bóp bóng giúp thở cho bệnh nhân với oxy trong 1-2 phút trước khi đặt lại lần nữa. Thử thay đổi tư thế bệnh nhân, thay đổi cỡ đèn và cỡ ống nội khí quản, dùng ống thông nòng. Nhấn sụn nhẫn có thể giúp thấy rõ thanh quản hơn.

Đặt nội khí quản vào thực quản

Đặt nội khí quản vào thực quản sẽ gây tử vong nếu không phát hiện ngay. Cách tốt nhất để xác định vị trí ống nội khí quản là nhìn thấy ống đi qua hai dây thanh. Đôi khi đặt lầm vào thực quản nhưng vẫn nghe thấy tiếng thở và lồng ngực di động. Nếu nghi ngờ, lấy ống ra và giúp thở qua bóng và mặt nạ. Hiện nay, dùng máy đo CO2 cuối kỳ thở ra (capnography) để xác định vị trí ống nội khí quản. Nếu ống nội khí quản ở trong thực quản, sẽ không có thán đồ.

Xử trí khi đặt ống nội khí quản thất bại

Đặt nội khí quản không thành công nhiều lần gây thiếu oxy và tăng nguy cơ hít chất ói chấn thương lưỡi và miệng hầu. Nếu đã đặt ống nội khí quản nhiều lần không được, làm theo phác đồ sau:

Ngừng đặt, và mời bác sĩ có kinh nghiệm đến giúp.

Thông khí O2 100% cho bệnh nhân với bóng và mặt nạ, airway mũi hay miệng, trong lúc người phụ tá đè sụn nhẫn.

Nếu không thông khí được, cho nằm nghiêng sang trái, hạ thấp đầu xe trong lúc vẫn đè sụn nhẫn. Nếu vẫn không thông khi được, ngưng đè sụn nhẫn và vẫn tiếp tục thông khí. Dùng mặt nạ thanh quản. Ít khi cần mở màng sụn giáp nhẫn.

Cho bệnh nhân tỉnh lại. Mời bác sĩ có kinh nghiệm giúp.

Co thắt thanh quản

Co thắt thanh quản xảy ra khi cơ thanh quản co thắt gây tắc đường thở, làm không thở được và thiếu oxy máu.

Nguyên nhân

Kích thích bệnh nhân khi độ mê nông.

Kích thích khí đạo do chất ói, đàm nhớt, máu hay do airway.

Khí mê có tính kích thích.

Rút ống nội khí quản khi độ mê nông.

Điều trị

Cho oxy 100%.

Hút sạch đường thở nhẹ nhàng.

Thông khí nhẹ nhàng với bóng và mặt nạ ; tránh bơm căng dạ dày gây ói.

Theo dõi ECG (nhịp tim chậm hay loạn nhịp).

Co thắt thanh quản nặng, bác sĩ gây mê cho bệnh nhân ngủ sâu hơn hay cho suxamethonium để đặt nội khí quản hay thông khí qua bóng và mặt nạ, bệnh nhân bị thiếu oxy, suxamethonium gây nhịp tim chậm cần cho atropine trước.

Bài viết cùng chuyên mục

Những yếu tố quyết định tác dụng của thuốc: dược lý học y khoa

Kê một đơn thuốc nhiều vị là điều cố tránh, gễ gây nguy hiểm, vì có thể tạo tương tác thuốc, những tác dụng không mong muốn của thuốc cũng tăng lên

Các cách tác dụng của thuốc: dược lý học y khoa

Tác dụng tại chỗ và toàn thân, tác dụng chính và phụ, tác dụng hồi phục và không hồi phục, tác dụng chọn lọc, tác dụng đối kháng, tác dụng hiệp đồng

Số phận của thuốc trong cơ thể: dược lý học y khoa

Thông thường qua chuyển hóa, thuốc sẽ mất tác dụng và hết độc, Gan chuyển hóa thuốc, cho nên với người có gan bệnh lý, cần dùng với liều lượng thuốc thận trọng

Khái niệm về thuốc: thuốc chữa bệnh cho người

Thuốc có tác dụng phòng và chữa bệnh, nhưng với liều cao vượt mức chịu đựng của người bệnh, thì thuốc trở nên độc

Thử giới hạn các tạp chất trong thuốc

Xác định giới hạn tạp chất trong thuốc thực chất là thử độ tinh khiết của thuốc nhằm xác định phẩm chất của thuốc. Nếu thuốc càng tinh khiết thì hiệu quả tác dụng càng cao.

Tiến hành lấy mẫu kiểm nghiệm thuốc theo tiêu chuẩn

Sau khi lấy mẫu xong, ngưòi lấy mẫu tự tay dán nhãn niêm phong, bao gói, phải có chữ ký xác nhận, và biên bản lấy mẫu.

Lấy mẫu kiểm nghiệm thuốc theo tiêu chuẩn

Lấy mẫu là một tập hợp các thao tác, nhằm lấy ra một lượng mẫu thuốc đại diện, để kiểm tra chất lượng, do vậy để kết luận về mẫu thuốc mang tính pháp lý.

Kiểm tra chất lượng thuốc (Drug quality control)

Theo qui định của tổ chức y tế thế giới, thuốc giả là chế phẩm được sản xuất không đúng với nhãn ở khía cạnh nhận dạng, hay nguồn gốc thuốc, với sự cố ý.

Thuốc và yêu cầu chất lượng

Trong suốt quá trình sản xuất, phải có kiểm tra, theo dõi, ghi chép để chứng minh tất cả các giai đoạn của qui trình đều được thực hiện nghiêm chỉnh.

Sử dụng và phối hợp kháng sinh trong điều trị

Việc lựa chọn kháng sinh dựa vào kháng sinh đồ, trong trường hợp cấp bách hoặc trong khi chờ đợi kết quả kháng sinh đồ có thể dựa vào kinh nghiệm.

Các thuốc hạ huyết áp

Natrinitroprussid được chỉ định trong cơn tăng huyết áp, suy tim sung huyết, và làm giảm nhu cầu oxy của cơ tim sau nhồi máu cơ tim.

Điều trị triệu chứng và hồi sức cho người bệnh ngộ độc

Dùng thuốc kích thích thần kinh khi ngộ độc các thuốc ức chế, dùng thuốc làm mềm cơ khi ngộ độc các thuốc co giật, dùng cura khi ngộ độc strrynin.

Trung hòa chất độc

Thường dùng các chất tương kỵ, để ngăn cản hấp thu chất độc, làm mất hoạt tính hoặc đối kháng với tác dụng của chất độc.

Loại trừ chất độc ra khỏi cơ thể

Với các thuốc hấp thu nhanh như aspirin, cloroquin, meprobamat, bar bituric, colchicin, thuốc chống rung tim, rửa dạ dày.

Một số thuốc đặc hiệu dùng trong nhiễm độc

Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ở Anh đã nghiên cứu các chất chống lại chất độc hóa học chứa hơi asen, đã tìm ra dimercaprol.

Đại cương ngộ độc thuốc cấp tính

Chỉ có rất ít thuốc có triệu chứng ngộ độc đặc hiệu, và cách điều trị đặc hiệu, vì vậy, các xử trí ngộ độc thuốc nói chung là loại trừ nhanh chóng chất độc ra khỏi cơ thể.

Thuốc tránh thai

Trong nửa đầu chu kỳ kinh nguyệt, dưới tác dụng của hormon giải phóng FSH của vùng dưới đồi, tuyến yên bài tiết FSH, làm cho nang trứng trưởng thành, tiết foliculin.

Hormon tuyến sinh dục

Giống như buồng trứng, tinh hoàn vừa có chức năng sản xuất tinh trùng, vừa có chức năng nội tiết.

Hormon vỏ thượng thận glucocorticoid

Vùng cuộn ở phía ngoài, sản xuất hormon điều hòa thăng bằng điện giải, đại diện là aldosteron, chịu sự kiểm tra chính của hệ renin angiotensin

Hormon tuyến tụy

Hầu như mọi tế bào của động vật có vú, đều có receptor với insulin, nhưng số lượng rất khác nhau, màng tế bào hồng cầu chỉ có 40 receptor.

Hormon tuyến giáp

Thyroxin, và triiodothyronin, có vai trò quan trọng trong sự phát triển bình thường của cơ thể, và chuyển hóa năng lượng.

Các vitamin tan trong dầu

Vitamin A có 3 dạng, retinol, retinal và acid retionic, retinol là một rượu dưới dạng ester có nhiều trong gan, bơ, phomat, sữa, lòng đỏ trứng, retinal dạng aldehyd của vitamin A

Các vitamin tan trong nước

Khi thiếu vitamin B1, có thể làm cho cơ thể mệt mỏi, chán ăn, giảm trí nhớ, đau, viêm dây thần kinh, giảm trương lực cơ.

Đại cương Vitamin

Vitamin là những hợp chất hữu cơ, mà tế bào người, và động vật không thể tự tổng hợp, có mặt trong thức ăn, với số lượng nhỏ.

Các thuốc kháng histamin

Thuốc kháng histamin, ức chế có cạnh tranh với histamin tại receptor, làm mất các tác dụng của histamin trên recetor.

Dược lý Histamin

Histamin là chất trung gian hóa học quan trọng, có vai trò trong phản ứng viêm, và dị ứng, trong sự bài tiết dịch vị và cũng có chức năng.

Đại cương điều trị glucose máu cao

Ở cơ thể bình thường, glucose máu được duy trì ở nồng độ hằng định nhờ sự cân bằng giữa insulin và glucagon, hormon tăng trưởng, cortisol.

Các thuốc hạ glucose máu

Ngày nay, dựa vào cấu trúc, insulin có thể được bán tổng hợp từ insulin lợn, hoặc nhờ kỹ thuật tái tổ hợp gen thông qua vi khuẩn hoặc nấm.

Thuốc điều trị rối loạn lipoprotein máu

Do có sự trao đổi ion clo, với acid mật mang điện âm, tạo nên phức hợp nhựa gắn acid mật không hấp thu, làm tăng thải acid mật qua phân.

Đại cương điều trị rối loạn lipoprotein máu

Điều trị rối loạn lipoprotein máu, thay đổi chế độ ăn, tăng cường hoạt động là quan trọng, thì không thể thiếu được các thuốc hạ lipoprotein máu.

Nguyên tắc điều trị rối loạn lipoprotein máu

Theo một số nghiên cứu cho thấy, muốn ngăn chặn được bệnh mạch vành nguyên phát, hoặc thứ phát.

Thuốc tiêu fibrin

Bình thường, enzym plasmin xúc tác cho sự tiêu fibrin trong máu ở thể không hoạt tính gọi là plasminogen.

Thuốc chống kết dính tiểu cầu

Hiện có một số thuốc chống kết dính tiểu cầu, được sử dụng trong lâm sàng để phòng, và điều trị huyết khối.

Thuốc chống đông máu

Để giảm vỡ tiểu cầu, ống nghiệm phải tráng parafin, colodion, phim silicon, ống nghiệm bằng pyrex làm máu đông chậm hơn là khi dùng loại bình thường.

Thuốc tác dụng lên quá trình đông máu

Khi có mặt vitamin K với vai trò cofactor cần thiết cho enzym ở microsom gan, xúc tác chuyển các tiền chất, thành các chất có hoạt tính.

Thuốc chống tiêu fibrin

Những phân tử mới sinh do fibrin bị hủy, cũng kết hợp lại với fibrin, để cho phức hợp không đông được nữa.

Cơ chế đông máu

Đông máu là một quá trình, máu chuyển từ thể lỏng thành thể đặc, do chuyển fibrinogen thành fibrin không hòa tan.

Nguyên tắc điều trị thiếu máu

Trong quá trình điều trị thiếu máu, phải kết hợp điều trị nguyên nhân, với dùng thuốc, hoặc với điều trị triệu chứng và bồi dưỡng cơ thể.

Đại cương điều trị thiếu máu

Thiếu máu là tình trạng giảm số lượng hồng cầu, hoặc huyết sắc tố, hoặc hematocrit, dưới mức bình thường so với người cùng tuổi, cùng giới khoẻ mạnh.

Các thuốc chữa thiếu máu

Trên lâm sàng, sắt có thể dùng đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch chậm, tiêm tĩnh mạch khi bệnh nhân không dung nạp hoặc rối loạn hấp thu.

Thuốc kích thích hô hấp

Ngoài cafein là thuốc tác dụng ưu tiên trên vỏ não, các thuốc khác đều có tác dụng chủ yếu trên hành não.

Thuốc điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (copd)

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, là tình trạng bệnh đặc trưng, bởi rối loạn thông khí tắc nghẽn, không có khả năng phục hồi hoàn toàn.

Sử dụng thuốc trong điều trị hen

Hít định liều là phương pháp thuận tiện, và có hiệu quả khi sử dụng thuốc điều trị hen, mức độ nhẹ và trung bình.

Thuốc chữa hen phế quản

Hen phế quản, là hội chứng viêm mạn tính đường hô hấp, có gia tăng tính phản ứng của phế quản với các tác nhân gây kích thích.

Xử trí hen

Nếu hen vẫn chưa kiểm soát được, cân nhắc phối hợp thêm với uống một trong các thuốc sau, theophylin giải phóng chậm.

Thuốc chữa ho

Ho là cơ chế tự vệ sinh lý quan trọng, để tống ra ngoài các dị vật, ở phần trên của đường hô hấp có thể gây tắc đường thở.

Thuốc làm thay đổi bài tiết dịch khí phế quản

Dịch nhày có tác dụng bám dính các hạt bụi, vi khuẩn, sau đó nhờ hệ thống lông mao đẩy chúng ra ngoài.

Thuốc điều trị viêm loét dạ dày tá tràng

Loét dạ dày tá tràng là bệnh lý đường tiêu hóa phổ biến, hậu quả của sự mất cân bằng giữa các yếu tố gây loét.

Thuốc điều chỉnh chức năng vận động và bài tiết của đường tiêu hóa

Đường tiêu hóa có chức năng vận động, để hấp thu các chất dinh dưỡng, điện giải, nước và bài tiết các chất cặn bã.

Thuốc chống co thắt và làm giảm nhu động đường tiêu hóa

Các thuốc chống nôn được chỉ định trong các chứng nôn do có thai, sau mổ, nhiễm khuẩn, nhiễm độc, say tàu xe và do tác dụng phụ của thuốc.

Thuốc chống tiêu chảy

Trong điều trị tiêu chảy, ngoài việc điều trị nguyên nhân, vấn đề ưu tiên trong mọi trường hợp là đánh giá, và xử lý đúng những rối loạn nước và điện giải.

Thuốc lợi mật và thuốc thông mật

Thuốc lợi mật nước, secretin, thuốc cường phó giao cảm, làm tăng bài tiết nước, và điện giải của tế bào biểu mô đường mật, gây tăng tiết mật.

Các dịch cung cấp glucid, acid amin và lipid

Trong sốc, nhu cầu năng lượng được cung cấp ở giai đoạn đầu, chủ yếu bằng glucid vì được hấp thu trực tiếp.

Các dịch thay thế huyết tương

Các sản phẩm thiên nhiên là tốt nhất, nhưng đắt và có nhiều nguy cơ, phản ứng miễn dịch, lan truyền viêm gan siêu vi khuẩn B hoặc C, lan truyền AIDS.

Calci: dược lý học

Trong máu, Ca ở dưới 3 dạng: 50 phần trăm dưới dạng ion Ca, gần 50 phần trăm kết hợp với protein huyết tương, chủ yếu là albumin.

Kali: dược lý học

Trên cơ tim, K làm giảm lực co bóp, giảm tính chịu kích thích và giảm dẫn tru yền, tác dụng đối kháng với Ca và glycosid, tim.

Natri: dược lý học

Điều hòa Na trong cơ thể do hormon vỏ thượng thận aldosteron, và hormon vasopressin hay ADH, hormon chống bài niệu của tuyến hậu yên.

Thuốc lợi niệu giữ kali máu

Các thuốc lợi niệu thuộc các nhóm trên, khi dùng lâu đều gây giảm kali huyết, các thuốc thuộc nhóm này tác dụng ở phần cuối ống lượn xa.

Thuốc lợi niệu làm giảm Kali máu

Các thuốc này do tác dụng làm tăng thải ion Na, nên có phản ứng tăng thải ion K, để giữ ion Na, gây các rối loạn giảm ion K.

Các loại thuốc lợi niệu

Mỗi thuốc lợi niệu thường tác dụng, ở một vị trí nhất định của ống thận, làm thay đổi thành phần ion của nước tiểu trong lòng ống thận.

Đại cương thuốc lợi niệu

Tất cả các chất làm tăng khối lượng nước tiểu, đều được coi là có tác dụng lợi niệu, song nếu chỉ như vậy thì không giải quyết được phù.

Chiến thuật điều trị tăng huyết áp vô căn

Vì tăng huyết áp vô căn mang tính chất rất đa dạng, nên việc điều trị cũng cần cá thể hóa, để vừa có hiệu quả, vừa có thể dung nạp được.

Thuốc ức chế enzym chuyển angiotensin (ECA)

Chuyển angiotensin I, decapeptid không có hoạt tính, thành angiotensin II, là chất có tác dụng co mạch và chống thải trừ Na qua thận.

Thuốc chẹn kênh calci

Nồng độ Ca ngoài tế bào 10 000 lần hơn trong tế bào, vì khi nghỉ màng tế bào hầu như không thấm với Ca.

Huyết áp và bệnh tăng huyết áp

Một yếu tố quan trọng trong tăng huyết áp, là lòng các động mạch nhỏ, và mao mạch thu hẹp lại, phần lớn không tìm được nguyên nhân tăng huyết áp.

Thuốc chống đau thắt ngực

Duy trì chuyển hoá năng lượng ở các tế bào bị thiếu oxy, hoặc thiếu máu do trimetazidin ngăn ngừa sự giảm sút mức ATP trong tế bào.

Đại cương thuốc điều trị cơn đau thắt ngực

Nguyên nhân của cơn đau thắt ngực, là do cơ tim bị thiếu oxy đột ngột, vì mất thăng bằng giữa sự tăng nhu cầu oxy của cơ tim và không đủ oxy của mạch vành.

Loại thuốc chống cơn đau thắt ngực

Trên mạch, nitrat làm giãn mạch da và mặt, gây đỏ mặt làm giãn mạch toàn thân, tĩnh mạch giảm, làm giảm dòng máu chảy về tim, giảm tiền gánh.

Loại thuốc điều trị củng cố đau thắt ngực

Trong hiệu thế hoạt động của tim, Ca có vai trò trong giai đoạn 2, và đặc biệt là trong khử cực của nút dẫn nhịp, nút xoang và nút nhĩ thất.

Thuốc loại glycosid (glycosid trợ tim)

Hiện chỉ còn digoxin, và digitoxin được dùng ở lâm sàng, digitoxin khác digoxin là không có OH ở C12 vì thế ít tan trong nước hơn.

Thuốc trợ tim không phải digitalis

Thuốc loại này được dùng cho suy tim cấp tính, và đợt cấp tính của suy tim mạn, biểu hiện bằng cơn khó thở nặng, phù ngoại biên hoặc phù phổi.

Định nghĩa thuốc trợ tim

Thuốc trợ tim, là những thuốc có tác dụng làm tăng lực co bóp của cơ tim, dùng trong các trường hợp suy tim.

Các kim loại nặng kháng khuẩn

Làm kết tủa protein, và ức chế các enzym, các vi khuẩn bị ức chế, có thể hoạt động trở lại khi tiếp xúc với các phức hợp.

Xà phòng kháng khuẩn tẩy uế

Các xà phòng loại bỏ trên bề mặt da các chất bẩn, các chất xuất tiết, biểu mô tróc vẩy và mọi vi khuẩn chứa trong đó.

Các hợp chất chứa phenol

Phenol được Lister dùng để tiệt khuẩn, do làm biến chất protein, và kích ứng da, nên độc, chỉ dùng để tẩy uế.

Các chất oxy hóa

Do có tác dụng oxy hóa, tạo gốc tự do, nên các thuốc này làm tổn hại màng vi khuẩn, ADN và một số thành phần chủ yếu khác của tế bào.

Các thuốc sát khuẩn thông thường

Ở nồng độ thấp, cồn có thể được sử dụng như các cơ chất cho một số vi khuẩn, nhưng ở nồng độ cao, các phản ứng khử hydro sẽ bị ức chế.

Đại cương thuốc sát khuẩn thuốc tẩy uế

Thuốc sát khuẩn, thuốc khử trùng là thuốc có tác dụng ức chế sự phát triển của vi khuẩn, cả in vitro, và in vivo khi bôi trên bề mặt của mô sống.

Thuốc chống amip

Amíp ký sinh ở người có nhiều loài, nhưng chỉ có Entamoeba histolytica, là loài duy nhất thực sự gây bệnh cho người, amíp có thể gây bệnh ở ruột.

Thuốc diệt Trichomonas

Trichomonas vaginalis ký sinh chủ yếu ở âm đạo, trong nước tiết âm đạo, ở các nếp nhăn của da ở bộ phân sinh dục người.

Thuốc chống sán

Thuốc hầu như không hấp thu qua ống tiêu hóa, thấm vào thân sán qua tổn thương mà niclosamid tạo ở vỏ sán, sán bị diệt ngay tại ruột của vật chủ.

Thuốc chống giun

Thuốc ít hấp thu qua ống tiêu hóa, sinh khả dụng qua đường uống dưới 20 phần trăm, sự hấp thu sẽ tăng lên khi uống mebendazol cùng với thức ăn có chất béo.

Đại cương thuốc chống giun sán

Thuốc chống giun sán, có nhiều loại, được sắp xếp dựa theo hình thể chung của ký sinh trùng, đa số thuốc đều hiệu quả cao.

Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc

Theo WHO, kháng thuốc là khả năng một chủng ký sinh trùng, có thể sống sót, và phát triển, mặc dù bệnh nhân đã được điều trị, và hấp thu một lượng thuốc.

Chu kỳ sinh học của ký sinh trùng sốt rét

Với P falciparum, tất cả mảnh trùng đều vào máu, và phát triển ở đó, còn P vivax và P ovale, ngoài sự phát triển tức thì của các thoa trùng.

Thuốc diệt giao bào ký sinh trùng sốt rét

Cơ chế tác dụng của primaquin chưa rõ ràng, có thể các chất trung gian của primaquin tác động như những chất oxy hóa, gây tan máu và methemoglobin.

Nguyên tắc điều trị sốt rét

Điều trị sớm điều trị càng sớm càng tốt, ngay sau khi các triệu chứng bệnh xuất hiện, trẻ em trong vòng 12 giờ, người lớn trong vòng 24 giờ.

Thuốc diệt thể vô tính ký sinh trùng sốt rét trong hồng cầu

Cloroquin còn có thể gắn vào chuỗi xoắn kép DNA, ức chế DNA, và RNA polymerase, cản trở sự tổng hợp nucleoprotein của ký sinh trùng sốt rét.

Đại cương thuốc điều trị sốt rét

Việc điều trị sốt rét hiện nay, còn gặp nhiều khó khăn, vì ký sinh trùng sốt rét, đặc biệt là P falciparum, đã kháng lại nhiều thuốc chống sốt rét.

Các thuốc điều trị phong

Thuốc có cấu trúc tương tự như dapson, nhưng hấp thu không hoàn toàn qua đường tiêu hóa, và thải trừ chủ yếu qua mật và qua phân.

Các thuốc chống lao

Là thuốc vừa kìm khuẩn vừa diệt khuẩn, uống hấp thu từ từ qua đường tiêu hóa, sau 3 giờ đạt nồng độ tối đa trong máu và thải trừ chủ yếu qua thận.

Sự kháng thuốc của vi khuẩn lao

Tỉ lệ vi khuẩn lao kháng thuốc ngày càng tăng, nguyên nhân chủ yếu là do dùng thuốc không đúng phác đồ phối hợp, liều lượng và thời gian dùng thuốc.

Nguyên tắc dùng thuốc chống lao

Để giảm tỷ lệ kháng thuốc, và rút ngắn thời gian điều trị, các thuốc chống lao luôn dùng cùng một lúc, ít nhất 3 loại thuốc trong 24 giờ.

Một số phác đồ điều trị lao hiện nay

Dựa trên phác đồ điều trị lao của tổ chức Y tế Thế giới, chương trình chống lao đề xuất một số phác đồ, áp dụng cho điều trị lao hiện nay.

Các thuốc chống lao thường dùng

Mặc dù isoniazid đã được sử dụng điều trị lao vài thập kỷ, và đến nay vẫn được coi là thuốc số một, trong điều trị tất cả các thể lao.

Nguyên tắc điều trị phong hiện nay

Nhằm tăng hiệu quả điều trị, rút ngắn thời gian dùng thuốc, và hạn chế sự kháng thuốc của trực khuẩn phong.

Đại cương thuốc chống lao

Trực khuẩn lao gây bệnh lao phổi, và các cơ quan khác, là loại vi khuẩn kháng cồn, kháng acid, sống trong môi trường ưa khí, phát triển chậm.

Thuốc điều trị phong

Nếu được điều trị sớm, và đúng, bệnh phong có thể khỏi, không để lại di chứng, hiện ba thuốc chủ yếu điều trị phong là dapson, rifampicin và clofazimin.

Thuốc chống nấm toàn thân

Flucytosin được nhập vào tế bào nấm nhờ enzym cytosin permease, trong tế bào, 5 FC được chuyển thành 5 FU, 5 fluorouracil.

Thuốc chống nấm tại chỗ

Nystatin, Mycostatin, Nilstrat, dạng pomat, kem bôi, thuốc bột, dạng phun, chứa 100000 đơn vị trong một gram.

Thuốc ức chế protease

Dùng kết hợp với một thuốc ức chế RT, để làm chậm kháng thuốc, uống 800 mg, cách 8 giờ uống 1 lần; để được hấp thu tốt, nên uống cách bữa ăn 2 giờ.

Thuốc ức chế NNRT

Dễ hấp thu qua đường tiêu hóa, thấm được qua rau thai và sữa, nồng độ trong dịch não tuỷ bằng 45 phần trăm nồng độ huyết tương.

Thuốc ức chế NRT

Didanosin bị phá huỷ nhanh ở môi trường acid, vì vậy mọi chế phẩm uống đều chứa chất trung hòa pH của dịch vị.

Đại cương thuốc kháng virus

Virus gồm có loại 1, hoặc 2 chuỗi ADN, hoặc ARN được bọc trong một vỏ protein, gọi là capsid, một số virus có cả vỏ lipoprotein.

Nhóm thuốc kháng sinh 5 nitro imidazol

Hấp thu nhanh qua tiêu hóa, ít gắn vào protein huyết tương, thấm được vào mọi mô, kể cả màng não, thải trừ qua nước tiểu, dạng còn hoạt tính.

Nhóm thuốc kháng sinh Quinolon

Các quinolon đều ức chế ADN gyrase, là enzym mở vòng xoắn ADN, giúp cho sự sao chép, và phiên mã, vì vậy ngăn cản sự tổng hợp ADN của vi khuẩn.

Nhóm thuốc kháng sinh macrolid và lincosamid

Nhóm macrolid phần lớn đều lấy từ streptomyces, công thức rất cồng kềnh, đại diện là erythromycin, ngoài ra còn clarithromycin và azithromycin.

Nhóm thuốc kháng sinh tetracyclin

Các tetracyclin đều là kháng sinh kìm khuẩn, có phổ kháng khuẩn rộng nhất trong các kháng sinh hiện có, các tetracyclin đều có phổ tương tự, trừ minocyclin.

Nhóm Sulfamid

Sulfamid đều là các chất tổng hợp, dẫn xuất của Sulfanilamid do thay thế nhóm NH2, hoặc nhóm SO2NH2, là bột trắng, rất ít tan trong nước.

Nhóm phối hợp sulfamid và trimethoprim

Trimethoprim là một chất hóa học tổng hợp, có tác dụng ức chế dihydrofolat reductase của vi khuẩn, 50000 đến 100000 lần mạnh hơn trên người.

Nhóm Cloramphenicol và dẫn xuất

Cloramphenicol có tác dụng kìm khuẩn, gắn vào tiểu phần 50s, của ribosom nên ngăn cản ARN m gắn vào ribosom.

Nhóm aminosid hay aminoglycosid

Thuốc tiêu biểu trong nhóm này là streptomycin, ngoài ra còn Neomycin, kanamycin, amikacin, gentamycin, tobramycin.

Nhóm kháng sinh beta lactam

Các beta lactam, và kháng sinh loại glycopeptid, tạo phức bền vững với transpeptidase, ức chế tạo vách vi khuẩn, làm ly giải hoặc biến dạng vi khuẩn.

Một số vấn đề về sử dụng kháng sinh

Chỉ dùng kháng sinh cho nhiễm khuẩn, không dùng cho nhiễm virus, có loại riêng, dùng càng sớm càng tốt.

Đại cương thuốc kháng sinh

Kháng sinh là những chất, do vi sinh vật tiết ra, hoặc những chất hóa học bán tổng hợp, tổng hợp, với nồng độ rất thấp.

Đại cương thuốc chữa động kinh

Thuốc chữa động kinh là những thuốc có khả năng loại trừ hoặc làm giảm tần số, mức độ trầm trọng của các cơn động kinh

Các thuốc chính chữa động kinh

Các thuốc chính chữa động kinh. Sau đây chỉ trình bày những thuốc có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam lần thứ 5 (2005)

Những vấn đề trong sử dụng thuốc chống động kinh

Những vấn đề trong sử dụng thuốc chống động kinh, nguyên tắc dùng thuốc và dùng trong thai nghén.

Thuốc bình thần

Có nhiều tên gọi: minor tranquillizers, anxiolytics, sedatives, hoặc thuốc an thần thứ yếu, thuốc bình thần, nhóm thuốc quan trọng hàng đầu là benzodiazepin.

Thuốc an thần kinh

Khác với thuốc ngủ, các thuốc loại này dù dùng với liều cao cũng không gây ngủ, chỉ có tác dụng gây mơ màng, làm dễ ngủ.

Allopurinol (Zyloprim)

Allopurinol, là chất ức chế mạnh xanthin oxydase, nên làm giảm sinh tổng hợp acid uric, giảm nồng độ acid uric máu và nước tiểu.

Sunfinpyrazon (Anturant)

Công thức gần giống phenylbutazon, gây đái ra acid uric mạnh do ngăn cản tái hấp thu ở ống thận, giống cơ chế của probenecid.

Probenecid (Bennemid)

Probenecid còn ức chế có tranh chấp, quá trình thải trừ chủ động tại ống lượn gần, của một số acid yếu như penicilin, para aminosalicylat.

Colchicin: thuốc chữa bệnh gút

Phần lớn liên quan đến tác dụng ức chế sự trùng hợp, của tubulin và ức chế phân bào, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, ức chế tuỷ xương.

Đại cương thuốc chữa gút

Các thuốc điều trị cơn gút cấp tính, sẽ ức chế các giai đoạn hoạt hóa bạch cầu, đặc hiệu nhất là colchicin.

Những vấn đề chung thuốc hạ sốt giảm đau chống viêm (CVKS)

Không chỉ định cho bệnh nhân có tiền sử loét dạ dày, trong trường hợp thật cần thiết, phải dùng cùng với các chất bảo vệ niêm mạc dạ dày.

Các dẫn xuất thuốc hạ sốt giảm đau chống viêm (CVKS)

Các dẫn xuất thuốc hạ sốt, giảm đau, chống viêm, ức chế cox chọn lọc và không chọn lọc, dẫn xuất acid salicylic.

Tác dụng chính và cơ chế thuốc hạ sốt, giảm đau, chống viêm (CVKS)

Chỉ có tác dụng với các chứng đau nhẹ, khu trú. Tác dụng tốt với các chứng đau do viêm

Định nghĩa thuốc hạ sốt giảm đau chống viêm (CVKS)

Các thuốc trong nhóm này rất khác nhau về cấu trúc hóa học, gồm các dẫn xuất của salicylat, pyrazolon, anilin, indol và một số thuốc khác.

Các opioid có tác dụng hỗn hợp: dẫn xuất của morphin

Có nhiều thuốc gắn trên receptor muy, tranh chấp với morphin và các opioid khá.c nhưng không gây tác dụng gì.

Các opioid thường dùng: dẫn xuất của morphin

Một số dẫn xuất của morphin như thebain, dionin, dicodid, eucodal, có tác dụng giảm đau, gây sảng khoái, gây nghiện như morphin.

Morphin nội sinh

Hai năm sau khi tìm ra receptor của opiat, một số công trình nghiên cứu cho thấy receptor, của morphin còn có ái lực rất mạnh.

Thuốc đối kháng với opioid

Thay đổi công thức hóa học của morphin, đặc biệt ở vị trí 17 mang nhóm N methyl, nhóm đặc hiệu kích thích receptor muy, sẽ được các chất đối kháng.

Nguyên tắc sử dụng thuốc giảm đau

Thuốc giảm đau chỉ điều trị triệu chứng, thuốc có thể che lấp các dấu hiệu của bệnh, trong khi bệnh vẫn tiến triển, nên phải cân nhắc khi sử dụng.

Thuốc giảm đau hỗ trợ

Thuốc giảm đau hỗ trợ có tác dụng hiệp đồng, làm tăng tác dụng giảm đau của các opioid, và thuốc giảm đau chống viêm không steroid.

Dược lý học Morphin

Morphin có tác dụng chọn lọc với tế bào thần kinh trung ương, đặc biệt là vỏ não, một số trung tâm bị ức chế, kích thích gây co đồng tử, nôn, chậm nhịp tim.

Đại cương thuốc giảm đau loại morphin

Thuốc giảm đau loại morphin có chung một đặc tính là gây nghiện, vì vậy đều thuộc bảng A, gây nghiện, không kê đơn quá 7 ngày.

Đại cương thuốc giảm đau

Đau là một cơ chế bảo vệ cơ thể, đau là do các ngọn dây thần kinh cảm giác bị kích thích quá độ bởi tác nhân vật lý hay hóa học.

Định nghĩa hệ adrenergic

Hệ adrenergic là hệ hậu hạch giao cảm, giải phóng chất trung gian hóa học gọi chung là catecholamin vì đều mang nhân catechol.

Định nghĩa dược lực học

Dược lực học nghiên cứu tác dụng của thuốc lên cơ thể sống, giải thích cơ chế của các tác dụng sinh hóa và sinh lý của thuốc.

Dẫn xuất benzodiazepin

Benzodiazepin có tác dụng an thần, giải lo, làm dễ ngủ, giãn cơ và chống co giật, thường dùng để chữa mất ngủ hoặc khó đi vào giấc ngủ do ưu tư lo lắng.

Đại cương thuốc ngủ và rượu

Ở những động vật bậc cao, để cho quá trình sống có thể diễn ra bình thường phải có sự luân phiên của hai trạng thái thức và ngủ.

Barbiturat

Tuỳ liều dùng, cách dùng, tuỳ trạng thái người bệnh, và tuỳ loại barbiturat, mà được tác dụng an thần, gây ngủ hoặc gây mê.

Dược lý học rượu

Tác dụng của rượu, trên thần kinh trung ương, phụ thuộc vào nồng độ rượu trong máu, ở nồng độ thấp rượu có tác dụng an thần, làm giảm lo âu.

Dược động học (Pharmacokinetics)

Để thực hiện được những quá trình này, thuốc phải vượt qua các màng tế bào. Vì thế trước khi nghiên cứu 4 quá trình này, cần nhắc lại các cơ chế vận chuyển thuốc qua màng sinh học.

Tính chất chung của thuốc tê

Thuốc tê làm mất cảm giác (đau, nhiệt độ) của một vùng cơ thể, tại chỗ dùng thuốc, trong khi chức phận vận động không bị ảnh hưởng. Carl Koller (1884) dùng dung dịch cocain để gây tê giác mạc, mở đầu thời kỳ của các thuốc tê.

Các loại thuốc tê thường dùng

Trên thần kinh thực vật, Cocain cường giao cảm gián tiếp, do ngăn cản tái thu hồi noradrenalin, ở ngọn dây giao cảm, làm co mạch, tăng huyết áp.

Thuốc huỷ hệ adrenergic

Thuốc hủy giao cảm (sympatholytic): là những thuốc phong toả nơron adrenergic trước xinap, làm giảm giải phóng catecholamin, không có tác dụng trên recepxor sau xinap, khi cắt các dây hậu hạch giao cảm thì thuốc mất tác dụng.

Thuốc cường hệ adrenergic

Là những thuốc có tác dụng giống adrenalin và noradrenalin , kích thích hậu hạch giao cảm nên còn gọi là thuốc cường giao cảm. Theo cơ chế tác dụng có thể chia các thuốc này làm hai loại.

Chuyển hóa của catecholamin

Catecholamin được sinh tổng hợp từ tyrosin dưới tác dụng của một số enzym trong  tế bào ưa crôm ở tuỷ thượng thận, các nơron hậu hạch giao cảm và một số nơron của thần kinh trung ương.

Thuốc đối kháng hệ muscarinic (Hệ M)

Atropin và đồng loại, là những chất đối kháng tranh chấp với acetylcholin, ở r eceptor của hệ muscarinic, ái lực lớn hơn 0 hiệu lực nội tại bằng 0.

Thuốc kích thích hệ muscarinic (hệ M)

Sau khi tổng hợp, acetylcholin được lưu trữ trong các nang, có đường kính khoảng 300 đến 600 A0 ở ngọn dây cholinergic, dưới thể phức hợp không có hoạt tính.

Thuốc kích thích hệ nicotinic (Hệ N)

Các thuốc này ít được dùng trong điều trị, nhưng lại quan trọng về mặt dược lý, vì được dùng để nghiên cứu các thuốc tác dụng trên hạch.

Thuốc phong bế hệ nicotinic (hệ N)

Được chia làm 2 loại: loại phong bế ở hạch thực vật, ảnh hưởng đến hoạt động của cơ trơn, và loại phong bế trên bản vận động của cơ vân.

Thuốc kháng cholinesterase

Các thuốc loại này kết hợp với cholinesterase (edrophonium etraethylamoni)  hoặc chỉ ở một vị trí anion hoặc ở cả hai vị trí tác dụng của emzym (physostigmin, prostigmin), nhưng không tạo thành phức hợp bền, cuối cùng vẫn bị thủy phân và enzym được hoạt hóa trở lại.

Thời điểm uống thuốc

Thuốc kích thích bài tiết dịch vị, các enzym tiêu hóa, chống đái tháo đường loại ức chế gluconidase, nên uống trước bữa ăn 15 phút.

Tương tác thuốc thức ăn đồ uống

Sự hấp thu thuốc phụ thuộc vào thời gian rỗng của dạ dày. Dạ dày không phải là nơi có ch ức năng hấp thu của bộ máy tiêu hóa. Tuy nhiên, do pH rất acid (khi đói, pH ~ 1; khi no pH ≥ 3) cho nên cần lưu ý:

Tương tác thuốc thuốc

Nhiều thuốc khi cho dùng cùng một lúc sẽ có tác dụng qua lại lẫn nhau, được gọi là tương tác thuốc. Trong lâm sàng, thầy thuốc muốn phối hợp thuốc để làm tăng tác dụng điều trị, giảm các tác dụng không mong muốn.

Phân loại hệ thần kinh thực vật theo chức phận sinh lý

Không thể tách rời hoạt động của hệ thần kinh tr ung ương với hệ thần kinh thực vật. Giữa 2 hệ luôn luôn có mối liên quan chặt chẽ với nhau để đảm bảo tính thống nhất của cơ thể.

Phân loại hệ thần kinh thực vật theo giải phẫu

Hệ phó giao cảm xuất phát từ não giữa, hành não và tuỷ cùng, ở não giữa, và hành não, các sợi phó giao cảm, đi cùng với các dây thần kinh trung ương.

Phân loại hệ thần kinh thực vật theo dược lý

Những thuốc có tác dụng giống như tác dụng kích thích giao cảm được gọi là thuốc cường giao cảm (sympathicomimetic), còn những thuốc có tác dụng giống như kích thích phó giao cảm được gọi là thuốc cường phó giao cảm.

Đại cương hệ thần kinh thực vật

Hệ thần kinh thực vật (còn gọi là hệ thần kinh tự động) chuyên điều khiển các hoạt động ngoài ý muốn, có vai trò điều hòa chức phận của nhiều cơ quan, hệ thống để cho giới hạn sống của cơ thể giữ được sự ổn định trong môi trường sống luôn luôn thay đổi.

Những yếu tố ảnh huởng đến tác dụng của thuốc

Thuốc muốn có tác dụng, phải gắn được vào receptor, ái lực với receptor, và sau đó là hoạt hóa được receptor đó, có hiệu lực hay tác dụng.

Các cách tác dụng của thuốc

Tác dụng tại chỗ là tác dụng ngay tại nơi thuốc tiếp xúc, khi thuốc chưa được hấp thu vào máu: thuốc sát khuẩn ngoài da, thuốc làm săn niêm mạc (tani n), thuốc bọc niêm mạc đường tiêu hóa (kaolin, hydroxyd nhôm).

Cơ chế tác dụng của thuốc

Tác dụng của phần lớn các thuốc là kết quả của sự tương tác giữa thuốc với receptor (thể thụ cảm). Receptor là một thành phần đại phân tử (macromolécular) tồn tại với một lượng giới hạn trong một số tế bào đích.

Những trạng thái tác dụng đặc biệt của thuốc

Trong quá trình sử dụng thuốc, ngoài tác dụng điều trị, đôi khi còn gặp những tác dụng "không mong muốn" do sự phản ứng khác nhau của từng cá thể với thuốc.

Nghiện thuốc

Nghiện thuốc là một trạng thái đặc biệt làm cho người nghiện phụ thuộc cả về tâm lý và thể chất vào thuốc với các đặc điểm sau: Thèm thuồng mãnh liệt. Nên xoay sở mọi cách để có thuốc dùng, kể cả hành vi phạm pháp.

Sự phân phối thuốc

Sau khi được hấp thu vào máu, một phần thuốc sẽ gắn vào protein của huyết tương, phần thuốc tự do không gắn vào protein sẽ qua được thành mạch.

Sự chuyển hóa thuốc

Nhưng như ta đã biết, thuốc là những phân tử tan được trong mỡ, không bị ion hóa, dễ thấm qua màng tế bào, gắn vào protein huyết tương, và giữ lại trong cơ thể.

Thải trừ thuốc

Thuốc được thải trừ dưới dạng nguyên chất hoặc đã bị chuyển hóa. Quá trình bài tiết tích cực, xẩy ra chủ yếu ở ống lượn gần, có 2 hệ vận chuyển khác nhau, một hệ cho các anion.

Sự hấp thu của thuốc

Hấp thu là sự vận chuyển thuốc từ nơi dùng thuốc (uống, tiêm) vào máu để rồi đi khắp cơ thể, tới nơi tác dụng. Như vậy sự hấp thu sẽ phụ thuộc vào: Độ hòa tan của thuốc.

Các cách vận chuyển thuốc qua màng sinh học

Kinh nghiệm cho thấy PM nhỏ nhất phải đạt khoảng 100, và không quá 1000, vì lớn quá thì không qua được các màng sinh học, để tới nơi tác dụng.