Phòng bệnh ung thư cấp một

2016-06-06 11:32 PM

Hoá chất phòng bệnh là một lĩnh vực mới đầy hấp dẫn trong nghiên cứu ung thư, tập trung vào phòng bệnh ung thư bằng sử dụng các chất hoá học can thiệp vào nhiều giai đoạn phát sinh ung thư.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thay đổi cách sống

Ở Mỹ, những nghiên cứu về quàn thể thấy rằng lối sống - bao gồm sử dụng thuốc lá, chế độ ăn và uống rượu - đống vai trò chính gây những tử vong do ung thư mà có thể tránh được. Những tác nhân khác, bao gồm béo phì, sinh đẻ, thời gian cho con bú cũng có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư. Mặc dù ung thư vú và ung thư tiền liệt tuyến là những bệnh ác tính hay gặp nhất ở nam và nữ, nhưng bệnh ung thư gây tử vong nhiều nhất ở cả hai giới vẫn là ung thư phổi. Một chất gây ung thư quan trọng nhất là thuốc lá và do thuốc lá có liên quan đến 1/3 các ca tử vong do bệnh ung thư nên các nỗ lực phòng và giáo dục không hút thuốc lá vẫn là vấn đề quan trọng. Người ta ước tính rằng nếu giảm tiêu thụ thuốc lá đi 30% thì có thể làm giảm 10% tử vong do bệnh ung thư và giảm đáng kể chi phí chò chăm sóc sức khoẻ.

Chế độ ăn là phần quan trọng trong phòng bệnh ung thư cấp một. Những nghiên cứu dịch tễ học về mối quan hệ hai chiều giữa hoa quả và rau xanh trong khẩu phân ăn với nguy cơ mắc các bệnh ung thư thông thường đã chỉ ra vai trò phòng bệnh của các thành phần trong rau xanh. Những chế độ ăn giàu chất béo có liên quan đến nguy cơ tăng bệnh ung thư vú, ung thư đại tràng; ung thư tiền liệt tuyến và ung thư phổi mặc dù những liên quan này mới chỉ là giả thuyết chưa được chứng minh. Hiện nay đang tiến hành những nghiên cứu để xác định tác dụng của khẩu phần ăn làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư. Để làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư chính phủ Mỹ đưa ra 2 mục tiêu cho tới năm 2000 của khẩu phần ăn thích hợp là:

(1) Tăng gấp đôi tiêu thụ carbonhydrat và chất xơ bằng cách tăng tiêu thụ hoa quả và rau xanh lên 5 lần trong 1 ngày, tăng sử dụng ngũ cốc và đậu lên 6 lần trong 1 ngày.

(2) Giảm lượng chất béo trong khẩu phần ăn không quá 30% tổng lượng calo đưa vào cơ thể. Mặc dù đã có cải tiến đáng kể trong khẩu phần ăn của người dân Mỹ trong 20 năm qua nhưng còn xa mới đạt được những mục tiêu này. Chi phí hợp lý và các biện pháp giáo dục định kỳ, theo dõi các quần thể nguy cơ cao cần được phát triển để hỗ trợ cho các biện pháp can thiệp vào lối sống có hiệu quả hơn.

Một tác nhân khác của lối sống có ý nghỉa quan trọng trong phòng bệnh cấp một là tiếp xúc với tia cực tím. Một thử nghiệm gần đây đã chứng minh rằng sử dụng che ánh nắng mặt trời không những phòng chống tiền ung thư dạng sừng mà còn làm giảm thoái hoá sừng ở da. Tránh nắng và dùng phương tiện tránh nắng thường xuyên cần được khuyến cáo trong phòng bệnh ung thư da.

Hoá chất phòng bệnh

Hoá chất phòng bệnh là một lĩnh vực mới đầy hấp dẫn trong nghiên cứu ung thư, tập trung vào phòng bệnh ung thư bằng sử dụng các chất hoá học can thiệp vào nhiều giai đoạn phát sinh ung thư. Sự hiểu biết sâu hơn về sinh hoá và cơ chế phân tử của quá trình sinh ung thư giúp cho việc xác định những hoá chất có khả năng phòng bệnh. Có 4 nhóm bệnh nhân được xác định có khả năng phòng bệnh.

Những bệnh nhân đã điều trị ung thư (phòng ngừa ung thư thứ phát).

Bệnh nhân có tổn thương tiền ung thư.

Bệnh nhân có nguy cơ cao bị bệnh ung thư (tiền sử gia đình, nghề nghiệp, lối sống).

Người bình thường.

Hoá chất được sử dụng phòng bệnh phải không độc và bệnh nhân có thể chịu được. Hơn nữa, cần phải có phương pháp đánh giá hiệu quả các hoá chất phòng bệnh hay hơn sự chờ đợi khối u phát triển. Những chất chỉ điểm sinh học trung gian xác định những thay đổi ở mức độ phân tử và tế bào ở giai đoạn sớm của quá trình phát sinh ung thư. Thí dụ, trong giai đoạn tiền xâm lấn của quá trình tạo khối u trong biểu mô, có thể sử dụng như chất thay thế để làm giảm tỉ lệ ung thư. Lý tưởng nhất là dùng các dấu hiệu thực thể và các định lượng máu để phát hiện bệnh nhân có nguy cơ cao bị ung thư hay không. Hiện nay, đang sử dụng trên lâm sàng những chất chỉ điểm sinh học như là bạch sản và các polyp đại tràng.

Các chất chống sinh ung thư đã được thăm dò bao gồm những chất có trong khẩu phần ăn (ví dụ các vitamin), các thuốc hạ sốt, giảm đau chống viêm không steroid, các chất ức chế hormon (như Tamoxiten). Retinoid là dẫn xuất tự nhiên và tổng hợp của vitamin A là những hoá chất phòng bệnh được nghiên cứu kỹ. Những số liệu điều tra dịch tễ học; những nghiên cứu in vitro và trên động vật, và hiện nay từ các thử nghiệm lâm sàng đã xác định vai trò của các chất này như các chất kìm hãm tế bào trong phòng bệnh các ung thư biểu mô.

Isotretinoin

Retinoid là những tác nhân điều biến độ biệt hoá của biểu mô in vivo và in vitro mà người ta cho là tác động điều hoà của gen (ức chế nhân khối u). Isotretinoin được chứng minh ức chế bạch sản là một tổn thương tiền ung thư của đường hô hấp tiêu hoá. Một nghiên cứu gần đây đã chứng minh tính hiệu quả và có khả năng chịu đựng được liều nhỏ Isotretinoin. Riêng những bệnh nhân có phản ứng với liều cao (1,5mg/kg/ngày) thì được điều trị ở liều duy trì (0,5mg/kg/ngày). Tỉ lệ phát triển bệnh ở liều duy trì chỉ là 8 so với tỉ lệ 55% ở nhóm khác sử dụng β - caroten. Isotretinoin cũng có thể làm giảm nguy cơ ung thư biểu mô nguyên phát. Thử nghiệm về hiệu quả β - caroten và retinol (CARET) là một thử nghiệm nhiều trung tâm theo 2 nhánh, mù đôi, ngẫu nhiên được thiết kế để kiểm chứng giả thuyết là: sự phối hợp của một chất chống oxy hoá (β - caroten) và một chất ức chế khối u (Isotretinoin) sẽ làm giảm nguy cơ bị ung thư phổi ở những người nghiện thuốc lá và những người hút thuốc tiếp xúc với amiăng. Hơn 8000 người tham gia được chọn ngẫu nhiên và kết quả thử nghiệm dự kiến hoàn thành vào năm 1998. Tuy nhiên một nghiên cứu gần đây ở Anh cho rằng cung cấp nhiều vitamin có thể có những tác dụng có hại. Trong thử nghiệm ngẫu nhiên này là thử nghiệm phòng bệnh cấp một có kiểm chứng trên 29.133 nam giới hút thuốc được điều trị hoặc là với riêng vitamin E, riêng β - caroten, cả vitamin E và β - caroten hoặc là dùng placebo. Trong thời gian từ 5 năm đến 8 năm, không thấy có sự giảm tỉ lệ ung thư phổi ở các nhóm dùng vitamin, có tỉ lệ ung thư phổi cao hơn ở nhóm dùng β - caroten và điều này dẫn đến tăng tỉ lệ tử vong. Như vậy, cung cấp vitamin trong khẩu phần ăn trong phòng bệnh ung thư cấp một ở nhóm nguy cơ cao vẫn chưa được chứng minh tính hiệu quả và có thể còn có hại. Những thử nghiệm tiếp theo sẽ làm sáng tỏ những vấn đề này.

Dùng Isotretinoin liều cao cũng có thể ngăn cản sự phát triển ung thư thứ phát ở những bệnh nhân bị ung thư dạng biểu bì ở đầu và cổ. Ở nhóm bệnh nhân dùng Isotretinoin có 14% bệnh nhân có ung thư thứ phát so với 31% ở nhóm placebo với sự theo dõi 54,5 tháng - Không có sự khác nhau về tỉ lệ tái phát; tuy nhiên chỉ có 7% bệnh nhân ở nhóm dùng Isotretinoin so với 33% ở nhóm placebo có khối u thứ phát ở đường hô hấp - tiêu hoá trên hay ở phổi. Điều trị 1 năm sau chẩn đoán thấy không có bệnh nhân nào ở nhóm được điều trị bằng Isotretinoin có khối u thứ phát trong khi đang dùng thuốc. Có 3 bệnh nhân ở nhóm placebo phát triển ung thư thứ phát trong năm đầu tiên. Những số liệu nghiên cứu này giúp cho việc tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên lớn đánh giá vai trò của Isotretinoin trong việc phòng khối u thứ phát khi điều trị ung thư ở đầu cổ hay ung thư phổi không phải là tế bào nhỏ ở giai đoạn sớm. Vì những biến chứng nặng quan sát thấy khi dùng Isotretinoin liều cao, nên liều thuốc được hạ xuống ở mức thấp hơn (30mg/ngày), điều trị thời gian dài sau khi chẩn đoán (3 năm). Độc tính chủ yếu khi dùng Isotretinoin liều cao là khô da nặng, tăng triglycerin trong máu, viêm môi và co giật. Những độc tính này giảm khi giảm liều hay ngừng thuốc tạm thời. Ở trường hợp bạch sản, tác dụng làm khô niêm mạc miệng sẽ mất đi khi ngừng thuốc.

Aspirin và các thuốc không phải steroid khác

Aspirin và các thuốc chống viêm không phải steroid khác ức chế tổng hợp prostaglandin và ức chế phát triển của khối u trên các thử nghiệm lâm sàng.

Ở chuột những chất ức chế prostaglandin có thể làm giảm số lượng và kích cỡ của các khối u đại tràng được gây ra bằng hoá chất hay tia xạ. Nghiên cứu về số lượng lớn các ca tử vong đưa đến kết luận là sử dụng aspirin thường xuyên ở liều nhỏ (>16 lần liều/tháng dùng ít nhất là 1 năm) có thể làm giảm nguy cơ tử vong của ung thư đại tràng. Một nghiên cứu giám sát đưa ra kết luận là dùng aspirin liều thấp không những phòng được bệnh ung thư đại tràng mà còn phòng được các bệnh ung thư thực quản, dạ dày và trực tràng. Một phần hiệu quả rõ ràng của aspirin và các thuốc không phải steroid khác có thể nhận thấy rõ trong các nghiên cứu về X - quang dạ dày ruột và soi ở những bệnh nhân được điều trị.

Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù kép, được kiểm soát bằng placebo gần đây đã đánh giá về tác dụng của Sulindac so với Placebo ở những bệnh nhân đa polyp tuyến có tính gia đình. Cả số lượng và kích cỡ của u tuyến đại - trực tràng đều giảm. Tuy nhiên không có sự đánh giá đầy đủ về sự thoái lui hoàn toàn của tất cả các polyp ở bất cứ bệnh nhân nào. Sau khi ngừng sử dụng thì cả số lượngpolyp và kích cỡ đều tăng lên. Mặc dù thuốc có tác dụng tốt nhưng dường như không thể thay thế cho cắt đoạn đại tràng ở nhóm có nguy cơ cao. Tuy nhiên, hiệu quả về sự thoái lui của polyp vẫn là vấn đề hấp dẫn và hiện đang có một thử nghiệm lớn để đánh giá tác dụng của aspirin trong việc phòng bệnh đa polyp ở những bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư đại tràng ở giai đoạn sớm.

Tamoxifen

Tamoxiíen là kháng estrogen có vai trò hỗ trợ quan trọng trong kiểm soát di cần ung thư vú. Tamoxiíen hiện nay là một hoá chất phòng bệnh tốt, đang được thử nghiệm và những số liệu tiền lâm sàng ở súc vật đã chỉ ra giảm tỉ lệ ung thư vú ở nhóm điều trị thuốc. Một số thử nghiệm điều trị hỗ trợ cho những phụ nữ bị ung thư vú một bên dùng Tamoxiíen đã cho thấy có 30 - 40% giảm nguy cơ phát triển ung thư thứ hai ở vú đối diện. Thử nghiệm dự phòng ung thư vú là một thử nghiệm trên toàn quốc, mù kép được kiểm soát bằng placebo, chọn lựa ngẫu nhiên phụ nữ trên 35 tuổi có nguy cơ cao bị ung thư vú được dùng Tamoxifen hay placebo hàng ngày trong 5 năm. Ba điểm cuối cùng sẽ được đánh giá. Điểm đâu tiên là sự phát triển của ung thư vú hay chết do ung thư vú. Tamoxifen cũng là một chủ vận chất khoáng cho xương và chuyển hoá cholesterol, do vậy điểm thứ hai và thứ ba là gẫy xương do loãng xương và nhồi máu cơ tim.

Việc sử dụng Tamoxifen như là hoá chất phòng bệnh cũng đang còn tranh luận. Một nghiên cứu ca - chứng gần đây đã ghi nhận rằng việc sử dụng Tamoxiíen kéo dài có liên quan đến sự tăng đáng kể nguy cơ ung thư nội mạc tử cung. Tuy nhiên hơn 50% phụ nữ trong nghiên cứu này dùng thuốc liều cao (40mg/ngày). Một mục tiêu tranh luận hiện nay là liệu có thể chứng minh việc sử dụng một hoá chất phòng bệnh là đúng hay không nếu như nó phòng bệnh ung thư vú ở một số phụ nữ nhưng lại gây ung thư nội mạc tử cung ở những người khác. Rõ ràng là cần phải thêm số liệu để đánh giá một cách đầy đủ nguy cơ này ở những phụ nữ dùng liều Tamoxifen thấp hơn (20 hoặc 30mg/ngày).

Những thuốc khác đang thử nghiệm

Những thử nghiệm hoá chất phòng bệnh khác đang được tiến hành bao gồm việc sử dụng Finasteride để phòng bệnh ung thư tiền liệt tuyến ở nam giới bằng khám trực tràng có hệ thống trừ khi xét nghiệm nồng độ PSA tăng cao. Finasteride ức chế các tác dụng tại chỗ của testosteron và được sử dụng trong tăng sản lành tính tuyến tiền liệt. 18.000 nam giới sẽ được chọn ngẫu nhiên trong nghiên cứu 5 năm này.

Nghiên cứu dài hạn, ngẫu nhiên và chặt chẽ về sức khoẻ đang đánh giá liệu sử dụng β - carotene và aspirin có làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư hay không.

Hiện nay, có một số thử nghiệm đánh giá tác dụng phòng bệnh trong khẩu phần ăn ở những người có nguy cơ cao. Một trong những thử nghiệm như vậy đang đánh giá vai trò của khẩu phần ăn nhiều chất xơ và ít chất béo trong việc phòng tái phát ở các polip tuyến ở những bệnh nhân đã phẫu thuật cắt polyp.

Bài viết cùng chuyên mục

Các hội chứng cận ung thư: chẩn đoán và điều trị

Hội chứng cận ung thư thường được cho là do tác động chuyển hóa hoặc nội tiết lạ không liên quan đến tổ chức ung thư, các dấu hiệu lâm sàng có thể giống với các rối loạn nội tiết.

Một số biến chứng trong ung thư

Tràn dịch tái phát có thể điều trị bằng dẫn lưu và gây dính. Tiêm hóa chất hoặc một thuốc gây dính vào khoang tràn dịch kèm lidocain để đỡ đau.

Cấp cứu hội chứng Carcinoid ác tính

Các thuốc chống sinh tổng hợp peptide như acetate octreotide là có hiệu quả nhất làm giảm các triệu chứng do hội chứng carcinoid, đồng thời làm giảm đáng kể mức 5HIAA trong nước tiểu.

Cấp cứu tăng acid uric máu và bệnh thận urate cấp trong ung thư

Tăng acid uric cấp, xuất hiện như là một biến chứng của quá trình tăng sinh ác tính nhanh chóng, hoặc do điều trị làm tan u mạnh trong các ung thư máu.

Cấp cứu biến chứng tăng Calci máu trong ung thư

Triệu chứng của tăng calci máu gồm nôn, buồn nôn, táo bón, đái nhiều, nhược cơ, giảm phản xạ, lẫn lộn, trầm cảm, run rẩy, một số bệnh nhân không có triệu chứng.

Cấp cứu biến chứng chèn ép tủy sống trong ung thư

Các thương tổn thần kinh lúc chẩn đoán đa phần là không hồi phục, mặc dù điều trị sớm các triệu chứng thần kinh có thể đạt được hồi phục dần.

Đánh giá đáp ứng điều trị của khối u ung thư

Chụp cộng hưởng từ hiện nay là phương pháp không xâm nhập tốt nhất để đánh giá các u hố sau của não, u tủy sống, chèn ép tủy sống, các bệnh lý chậu hông.

Độc tính và thay đổi liều thuốc hóa chất điều trị ung thư

Giảm tiểu cầu cũng là vấn đề khi điều trị hóa chất kéo dài liều cao, và có thể làm hạn chế điều trị, Một số thuốc hiện nay đang nghiên cứu có thể giải quyết vấn đề này.

Hóa trị liệu bổ trợ cho các vi di căn ung thư nguyên phát

Điều trị bổ sung còn đang được nghiên cứu và chưa được chứng minh trong các ung thư hay mắc khác như ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư tuỵ.

Điều trị ung thư nguyên phát bằng phẫu thuật và tia xạ

Hiện nay phẫu thuật có hiệu quả cả về chẩn đoán và điều trị, vì nó cho phép đánh giá giai đoạn mô bệnh học của sự phát triển và xâm lấn tại chỗ cũng như khả năng loại bỏ khối u nguyên phát.

Xếp giai đoạn bệnh ung thư

Phương pháp để tiến hành sắp xếp giai đoạn như bằng khám lâm sàng hay làm giải phẫu bệnh bệnh phẩm lấy được phải được tiến hành cẩn thận.

Phòng bệnh ung thư cấp hai: phát hiện sớm ung thư

Đối với hầu hết các bệnh ung thư, giai đoạn lúc phát hiện bệnh có liên quan đến khả năng chữa bệnh, tỉ lệ chữa khỏi bệnh cao nhất khi khối u còn nhỏ và không có dấu hiệu di căn.

Tỷ lệ mắc bệnh và nguyên nhân ung thư

Phần lớn các bệnh ung thư ở người lớn được cho là do sự kết hợp của các nhân tố liên quan đến lối sống và do tiếp xúc với môi trường. Các vấn đề về lối sống sẽ được đề cập ở phàn phòng bệnh cấp một.