Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

2016-11-24 03:17 PM

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các hội chứng kém hấp thu có thể liên quan với nhiều quá trình bệnh niêm mạc ruột non đều có chung chứng kém hấp thu các chất nuôi dưỡng của đường dạ dày - ruột. Các hội chứng này phải được phân biệt với các trạng thái kém tiêu hóa, trong đó các bất thường bên trong lòng ruột dẫn đến việc không hấp thu các chất nuôi dưỡng như suy tụy, thiếu muối mật và nhiều bệnh sau mổ.

Các yếu tố thiết yếu trong chấn đoán

Phân có khối to, nhạt mầu, có bọt, mùi hôi, phân mỡ với mỡ phân tăng lên trong xét nghiệm hóa học phân.

Sụt cân và các dấu hiệu thiếu nhiều vitamih. Ruột hấp thu giảm các vitamin A, D, E, K cũng như giảm hấp thu mỡ.

Thiếu máu giảm sắc tố hoặc nguyên hồng cầu khổng lồ, chụp X quang ruột non cho thấy ruột non bị giãn to và barit pha loãng.

Các nhận định chung

Các hội chứng tiêu chảy (sprue) là các bệnh về rối loạn chức năng ruột có đặc điểm là giảm hấp thu đặc biệt với các chất mỡ và các bất thường vận động. Tiêu chảy bụng ỏng đáp ứng với chế độ ăn không có gluten, ngược lại tiêu chảy nhiệt đới không đáp ứng. Chất polypeptid gliadin là chất gây bệnh có trong gluten. Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Độ nặng lâm sàng của hội chứng tiêu chảy thay đổi tùy theo mức độ tổn thương ruột non và thời gian bị bệnh. Gầy mòn nặng, mất protein dạ dày - ruột, thiếu nhiều vitamin, suy thượng thận và tuyến yên có thể liên quan với các thể nặng của bệnh. Một niêm mạc ruột phẳng dẹt không có các nhung mao ở ruột non được nhận thấy và một số nhà quan sát đã mô tả các biển đổi thoái hóa trong đám rối thần kinh - cơ ở ruột. Do mất các nhung mao, các vi nhung mao cũng mất, dẫn tới thiếu disaccharidase, đặc biệt là thiếu lactase.

Các biến thể thứ phát hịếm của hội chứng tiêu chảy trong đó nguyên nhân rối loạn chức năng của ruột non được biết bao gồm các đường rò dạ dày - ruột kết, tắc các mạch dưỡng trấp của ruột do u lympho, bệnh Whipple, viêm ruột khu vực rộng, và các bệnh nhiễm ký sinh vật như giardia, cryptosporidium, giun lươn và isospora.

Phát hiện lâm sàng

Tiêu chảy nhiệt đới

Các bệnh nhân bị tiêu chảy nhiệt đới hoặc là ngươi đã cư trú hoặc là cơ thời gian dài ở các vùng nhiệt đới. Triệu chứng chính là tiêu chảy; đầu tiên tiêu chảy đột ngột và toàn nước; về sau phân ít hơn, có mỡ và các đợt nặng thêm khi chế độ ăn có nhiều mỡ. Không tiêu, đầy hơi, đau thắt bụng, sụt cân (thường là rõ rệt), xanh xao, suy nhược, dễ kích thích, dị cảm và đau thắt cơ (chuột rút) có thể xẩy ra. Các thời kỳ im lặng cơ hoặc không cơ các dấu hiệu nhẹ có thể xấy ra đặc biệt vào lúc rời khỏi vùng nhiệt đới. Các triệu chứng cơ thể xẩy ra nhiều năm sau khi bệnh nhân đã rời khỏi các vùng bệnh lưu hành địa phương.

Thiếu các vitamin gây viêm lưỡi, hư môi, viêm góc miệng (choe mép), tăng sắc tố da, và da khô ráp. Bụng trướng và đau nhẹ khi sờ chạm. Phù xuất hiện muộn.

Thiếu máu thường đại hồng cầu và với mất máu hoặc kém hấp thu sắt, có thể là giảm sắc tố, hồng cầu nhỏ hoặc hỗn hợp. Mỡ trong phân tăng lên. Protein, calci, phospho, cholesterol và prothrombin trong huyết thanh thấp. Thường hay cơ giảm acid chlohydric dạ dày. Các enzym tụy là bình thường.

Bảng. Các biểu hiện lâm sàng và labo của kém hấp thu

Biểu hiện

Phát hiện labo

Chất dinh dưỡng kém được hấp thu

Phân ngấm mỡ (khối lượng lớn, màu nhạt)

Tăng mỡ trong phân, giảm cholesterol huyết thanh

Mỡ

Tiêu chảy (tăng nước trong phân)

Tăng mỡ trong phân hoặc test hơi thở muối mật dương tính

Các acid béo hoặc các muối mật

Sụt cân; suy dinh dưỡng (teo yếu cơ); yếu duối, mệt mỏi. Bụng trướng

Tăng mỡ và nitơ trong phân; giảm hấp thu glucose và xylose (dường gỗ)

Các calo (mỡ, protein, cacbohydrat)

Thiếu máu do thiếu sắt

Thiếu máu giảm sắc tố; sắt huyết thanh thấp

Sắt

Thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ

Tăng đại hồng cầu; giảm hấp thu vitamin B­12 (B12 gắn 67Co); Giảm hoạt tính của vitamin B12 và acid folic trong huyết thanh (xét nghiệm vi sinh)

Vitamin B12 hoặc acid folic

Dị cảm; têtani; các dấu hiệu Trousseau và Chvostek dương tính

Giảm calci, magnesium và kali trong huyết thanh

Calci, vitamin D, magenesium, kali

Đau xương, gãy xương bệnh lý, biến dạng khung xương

Bệnh loãng xương, nhuyễn xương thấy rõ trên X quang

Calci, protein

Xu hướng xuất huyết (đốm xuất huyết, phân máu đen, đái máu)

Thời gian prothrombin kéo dài

Vitamin K

Phù

Giảm albumin huyết thanh; tăng mất α1 - antitrypsin trong phân

Protein (hoặc bệnh ruột mất protein)

Đái đêm; trướng bụng

Các mức nưóc ở ruột non trên X quang

Nước 

Không dung nạp sữa (đau thắt, sưng phù, tiêu chảy)

Test dung nạp lactose thấp; giảm các mức lactase ở niêm mạc

Lactoza

Các phim chụp X quang sử dụng barit không có bọt cho thấy ruột bị giãn to và đôi khi có quá nhiều chất lỏng và hơi.

Tiêu chảy bụng ỏng

Rối loạn này có đặc điểm là hấp thu kém mỡ, protein, carbohydrat, sắt và nước. Hấp thu các vitamin A, D, K hòa tan trong mỡ bị suy kém. Chứng mềm xương có thể là hậu quả. Mất protein từ ruột có thể xẩy ra. Loại bỏ gluten trong chế độ ăn gây nên sự cải thiện tình trạng đột ngột. Gluten có trong lúa mì, lúa mạch, yến mạch, mạch đen và được sử dụng làm chất nền trong nhiều thức ăn chế biến và thuốc men. Loại trừ cẩn thận chất này trong chế độ ăn là quan trọng để làm giảm bệnh.

Trong 1/3 số bệnh nhân bị tiêu chảy bụng ỏng, các triệu chứng bắt đầu từ tuổi trẻ nhỏ, Các triệu chứng có thể tồn tại cho đến tuổi người lớn, nhưng thường có giai đoạn tiềm tàng với sức khỏe có vẻ tốt. Thiếu máu thường là giảm sắc tố và hồng cầu nhỏ. Các biến chứng của hấp thu suy yếu trở nên nặng nề hơn: nhi tính, còi cọc, têtani, các dấu hiệu thiếu vitamin và cả còi xương cũng có thể thấy. Chẩn đoán xác định của phân ngấm mỡ đòi hỏi đo định lượng mỡ trong phân, tốt nhất là trên cơ sở ăn chất mỡ đã biết, và đặc điểm đặc trưng của sinh thiết ruột non.

Một nhóm nhỏ bệnh nhân với vẻ ngoài tiêu chảy bụng ỏng không đáp ứng với chế độ ăn không có gluten. Khi xem xét kỹ lưỡng hơn sinh thiết niêm mạc ruột non người ta thấy một lớp chất keo giữa các tế bào hấp thu, bề mặt và phiến mỏng đặc biệt. Chưa tìm được một biện pháp y học nào có hiệu quả đồng bộ. Các nguyên nhân khác gây không đáp ứng có thế bao gồm sự phát triển của u lympho, viêm loét hỗng - hồi tràng và có thể là một tổn thương đáp ứng với steroid.

Chẩn đoán phân biệt

Cần phân biệt giữa các nguyên nhân khác nhau gây kém hấp thu để cho phép lựa chọn liệu pháp đặc hiệu, nếu có. Các bất thường giải phẫu học như là các đường rò, quai ruột tịt, bệnh túi thừa hỗng tràng có thể được thấy khi chụp X quang. Viêm ruột khu vực thường có vẻ ngoài chụp X quang đặc biệt nhưng phải được phân biệt với lao ruột và u lympho. Sự xuất hiện trên X quang hình ảnh của ruột non trong bệnh Whipple, tăng sản dạng bạch lympho, u lympho ruột, và thoái hóa dạng tinh bột là bất thường nhưng không đặc hiệu hoăc mang tính chất chẩn đoán. Trong các bệnh tiên phát của ruột non, sinh thiết hụt niêm mạc là cách tốt nhất để chẩn đoán. Đáp ứng bệnh lý trong một số bệnh là chắp vá và có thể cần nhiều mẫu sinh thiết. Suy tụy do tắc có thể được chẩn đoán bằng lượng tiết dịch thấp của tụy đáp ứng với tiêm secretin đường tĩnh mạch.

Điều trị

Tiêu chảy nhiệt đới

Acid folic, 10 - 20mg/ngày uống hoặc tiêm bắp trong vài tuần để hạn chế tiêu chảy, chán ăn, sụt cân, viêm lưỡi và thiếu máu. Tetracyclin, 250mg uống 4 lần/ngày được cho vào lúc bắt đầu điều trị. Khi bệnh đã giảm hoàn toàn, có thể duy trì điều trị cho bệnh nhân với 5mg acid folic hàng ngày. Nếu bệnh nhân thiếu acid chlohydric, cũng phải xem xét việc tiêm bắp vitamin B12. Thiếu máu giảm sắc tố có thể được, chữa bằng cho uống sắt. Một chế độ ăn có nhiều calo, nhiều protein và ít mỡ có thể dành cho bệnh nhân.

Ỉa chảy mỡ

Sự loại bỏ nghiêm ngặt gluten ra khỏi chế độ ăn sẽ dẫn tới sự hồi phục lâm sàng. Nếu không có đáp ứng, cần hỏi kỹ về các thuốc men khác (nhiều thuốc sử dụng gluten làm tá dược) và tìm xem có mắc tiêu chảy do chất tạo keo. Chế độ ăn phải không có gluten. Ngoài ra, chế độ ăn phải có nhiều calo, nhiều protein và ít mỡ. Ban đầu, chế độ ăn cũng phải không có lactose vì ruột mất các vi nhung mao chứa lactase; khi bệnh đã thuyên giảm, có thể thêm các thức ăn chứa lactose. Thiếu prothrombin được chữa bằng cách cho uống vitamin K tan trong nước hoặc, nếu khấn cấp, cho tiêm thuốc này. Chữa giảm calci huyết hoặc têtani bằng calciphosphat hoặc gluconat, 2g cho uống hoặc tiêm tĩnh mạch (4,5 -16 mEq Ca2+, lặp lại nếu cần thiết để chữa têtani, tiêm chậm với tốc độ không vượt quá 2ml/phút) ba lần/ngày và vitamin D, 5000 - 20.000 đơn vị. Cũng nên cho thêm nhiều vitamin. Thiếu máu hồng cầu to thường đáp ứng với vitamin B12, 100 µg tiêm bắp hàng tháng cho đến khi bệnh thuyên giảm về mặt lâm sàng.

Các corticosteroid có thể có lợi cho một số bệnh nhân bị tiêu chảy, nhất là các bệnh nhân nặng, vì chúng làm tăng hấp thu nitơ, mỡ, các chất dinh dưỡng khác từ đường dạ dày - ruột. Chúng có tác dụng không đặc hiệu trong việc làm tăng cảm giác ngon miệng và gây ra sảng khoái bệnh lý nhẹ. Tốt nhất là cho cortisol với các liều 100 - 300mg/24 giờ đường tĩnh mạch và giảm dần đi tùy theo đáp ứng của bệnh nhân.

Tiên lượng

Với điều trị đúng đắn, đáp ứng là tốt. Các bệnh nhân bị ỉa chảy mỡ có tỷ lệ mắc bệnh u lympho và ung thư biểu mô tăng lên về sau. Các bệnh nhân phát sinh các triệu chứng dạ dày - ruột, trong khi đang thuyên giảm theo chế độ ăn không có gluten, phải được đánh giá chu đáo để loại trừ ung thư.

Bài viết cùng chuyên mục

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.