Xét nghiệm nước tiểu đánh giá bệnh niệu học

2016-01-09 07:06 PM

Xét nghiệm nước tiểu bằng qụe đo mực nước không có vai trò gì trong việc sàng lọc các bệnh đường tiết niệu ở những người trưởng thành không có triệu chứng ngoại trừ phụ nữ mang thai.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Lấy mẫu nước tiểu

Ở nam giới, một mẫu nước tiểu hoàn toàn nhiễm bệnh được lấy theo các ước số riêng biệt. Một kế hoạch như thế có thể cho phép xác định được vị trí của bệnh. Lấy 5 - 10ml nước tiểu đầu tiên để đại diện cho phần niệụ đạo; một mẫu giữa dòng sẽ phản ánh các tình trạng bệnh ở bàng quang và đường tiết niệu trên. Khi cần thiết, phải bóp tuyến tiền liệt và thu các mẫu chất tiết được ép ra. Nếu như không thu được dịch, phải lây 2 - 3ml nựớc tiểu để phản ánh bệnh tuyến tiền liệt.

Xét nghiệm nước tiểu bằng que đo mực nước

Độ pH

Xét nghiệm nước tiểu bằng qụe đo mực nước không có vai trò gì trong việc sàng lọc các bệnh đường tiết niệu ở những người trưởng thành không có triệu chứng ngoại trừ phụ nữ mang thai. pH nước tiểu (trong phạm vi từ 5 - 9) có thể hữu ích trong chẩn đoán và điều trị một số bệnh tiết niệu. Nước tiểu kiềm trên một bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiết niệu sẽ hướng đến sự hiện diện của một vi khuẩn phân tách urê và hay gặp nhất là Proteur mirabilis, tuy nhiên một số chủng klebsiella, pseudomonas, providencia, và tụ cầu cũng có thể tạo ra urease. Nếu nước tiểu acid ở bệnh nhân bị sỏi tiết niệu sẽ hướng đến sỏi acid uric hoặc sỏi cystin. Nước tiểu acid nhưng pH không nhỏ hơn 5,5 dù nhiễm toan chuyển hóa thì cần hướng đến nhiễm toan ống lượn xa.

Protein

Xét nghiệm nước tiểu bằng que đo mực nước sử dụng xanh bromphenol có thể phát hiện được protein khi nồng độ của nó vượt quá 10mg/dl. Nó cho phép xác định albumin và không nhạy với chuỗi nhẹ các globulin miễn dịch (các protein Bence Jones). Kết quả dương tính giả gặp ở nựớc tiểu có chứa nhiều bạch cầu hoặc các tế bào biểu mô.

Urobilinogen và bilirubin

Urobilinogen được hình thành từ quá trình dị hóa bilirubin tiếp hợp ở ruột nhờ vi khuẩn và phần lớn được thanh thải qua gan. Bình thường, chỉ có 1- 4mg urobilinogen được bài tiết trong nước tiểu mỗi ngày. Các quá trình tan máu hoặc bệnh của tế bào gan có thể dẫn đến tăng nồng độ urobilinogen trong nước tiểu, trong khi đó tắc nghẽn mật hoàn toàn hoặc các kháng sinh phổ rộng mà làm biến đổi vi khuẩn chí của vi khuẩn đường ruột lại có thể dẫn đến không có urobilinogen trong nước tiểu. Bilirubin không kết hợp, không lọc qua được cầu thận, trong khi đó chỉ có 1% bilirubin tiếp hợp được lọc qua. Bình thường, khi sử dụng que đo mực nước để xét nghiệm nước tiểu không phát hiện thấy bilirubin, bởi vì chỉ khi nồng độ bilirubin lớn hơn 0,4mg/dl mới có thể phát hiện được. Các bệnh có biểu hiện tăng bilirubin tiếp hợp trong huyết thanh sẽ dẫn đến tăng bilirubin trong nước tiểu: Acid ascorbic có thể gây ra các kết quả âm tính giả, trong khi phenazopyridin có thể gây ra các kết quả dương tính giả.

Glucose và các thể ceton

Bình thường chỉ có lượng nhỏ glucose được bài tiết vào nước tiểu, và những lượng này ở dưới mức nhậy đối với que đo mực nước. Nếu kết quả dương tính thì cần phải đánh giá bệnh đái tháo đường. Test này đặc hiệu với glucose và không phản ứng chéo với bất kỳ loại đường nào khác. Acid ascorbic và tăng các thể ceton có thể làm cho kết quả âm tính giả.

Bình thường, ceton không thấy trong nước tiểu, nhưng trong các tình trạng sau luyện tập, đói; và mang thai có thể làm tăng ceton trong nước tiểu. Đái tháo đường thường có biểu hiện tăng ceton nước tiểu trước khi tăng ceton trong huyết thanh. Các kết quả dương tính giả xảy ra khi mất nước hoặc khi có mặt của các chất chuyển hóa levodopa, mesna (natri, mẹrcaptoethanesulíonat), và các hợp chất khác có chứa sulthydryl.

Các nitrit

Bình thường, nước tiểu không có các nitrit. Nhiều vi khuẩn Gram (-) có thể khử nitrat thành nitrit, và do đó nitrit là một chất chỉ điểm của vi khuẩn. Tuy nhiên, độ nhạy thấp của test đòi hỏi phải có sự rõ ràng. Số lượng vi khuẩn phải hiện diện ở mức đủ (105 vi khuẩn/ ml), các nitrat phải có trong nước tiểu, và vi khuẩn phải tiếp xúc với nước tiểu trong thời gian đủ dài (thường là 4 giờ). Do đó, mẫu bài tiết đầu tiên vào buổi sáng là thích hợp nhất. Các kết quả âm tính giả có thể do các vi khuẩn không khử nitrat, tiểu tiện thường xuyên, nước tiểu pha loãng hoặc nước tiểu acid (pH < 6,0) và có sự hiện diện của urobilinogen. Các kết quả dương tính giả thường thứ phát đối với các mẫu bị nhiễm khuẩn, do đó vi khuẩn thực sự có trong mẫu nhưng lại không có ở đường tiết niệu.

Esterase của bạch cầu

Esterase của bạch cầu là một enzym do bạch cầu sinh ra. Que đo mực nước tiểu phát hiện ra các bạch cầu trong nước tiểu và do đó có tính chất gợi ý nhưng không có giá trị chẩn đoán vị khuẩn. Các test dương tính giả có thể do nhiễm khuẩn mẫu. Các test âm tính giả có thể do tỷ trọng cao, glucose niệu, hoặc nước tiểu có urobilinogen, và các thuốc, bao gồm ritampin, phenazopyridin, và acid ascorbic.

Máu

Que, đo mực nước tiểu áp dụng đối với máu trong nước tiểu sẽ xác định được hồng cầu nguyên vẹn, hemoglobin tự do, và myoglobin. Các kết quả dương tính giả ở phụ nữ có thể xảy ra do mẫu bị nhiễm với máu kinh nguyệt. Nước tiểu cô đặc cũng có thể gây ra kết quả dương tính giả, bởi vì bình thường người bệnh bài tiết 1000 hồng cầu/ lml nước tiểu. Luyện tập mạnh và các vitamin hoặc thức ăn có nồng độ chất oxy hóa cao cũng có thể cho kết quả dương tính giả. Nồng độ acid ascorbic cao có thể tạo kết quả dương tính giả.

Phân tích nước tiểu dưới kính hiển vi

Bạch cầu

Sự có mặt của trên 5 bạch cầu trên một trường sáng mạnh được xem là có mủ - niệu đáng kể. Bạch cầu trong nước tiểu cho thấy có thương tổn đường niệu mà có thể do hoặc không do nhiễm trùng. Các nguyên nhân, mủ - niệu khác bao gồm sỏi, hẹp, u tân sinh, bệnh lý thận - tiểu cầu, hoặc viêm bàng quang kẽ. Số lượng bach cầu sẽ biến thiên do tình trạng mất nựớc, phương pháp lấy mẫu, và mức độ tổn đường niệu.

Hồng cầu

Sự có mặt của trên 5 hồng cầu trong một vi trường tăng sáng được xem là có ý nghĩa và phải làm nghiên cứu thăm dò thêm nữa (xem phần đánh giá đái máu). Sự hiện diện của hồng cầu đôi khi đưa ra một đầu mối về nguồn gốc của chúng trong đường tiết niệu. Các tế bào loạn hình (hình dạng không đồng đều) có sự phân bố hemoglobin và tương bào không đồng đều thường chỉ ra một bệnh lý cầu thận. Hồng cầu tròn có sự phân bố hemoglobin đồng đều, hướng đến bệnh ở lớp biểu mô lót của đường tiết niệu. Tất cả bệnh nhân bị đái máu đòi hỏi phải có các nghiên cứu chẩn đoán hơn nữa; hình thái học mặc dù có ích song nó không đủ chính xác để cho phép rút ra các kết luận chẩn đoán xác định.

Tế bào biểu mô

Sự có mặt của các tế bào biểu mô lát trong mẫu nước tiểu cho thấy có sự nhiễm bẩn và do đó cần phải lấy một mẫu nhắc lại. Các tế bào tiểu mô chuyển tiếp đôi khi thấy trong mẫu nước tiểu bình thường, song nếu chúng hiện diện với số lượng lớn hoặc thành các cụm thì thường gợi ý tới khả năng của u tân sinh. Nghiên cứu thăm dò tế bào học có thể là cần thiết để khẳng định dấu hiệu này.

Vi khuẩn và nấm men

Sự có mặt của các vi khuẩn trong một mẫu không bị nhiễm bẩn là ngụ ý tới nhiễm trùng. Để khẳng định cần phải nuôi cấy. Sự hiện diện của một vài vi khuẩn trong một trường sáng mạnh thường liên quan với một số lượng nuôi cấy là 105 vi khuẩn/ 1ml. Nhuộm Gram có thể hỗ trợ thêm cho việc xác định đặc trưng của vi khụẩn. Candida albicans là nấm men hay gặp nhất trong nước tiểu và được quan sát thấy điển hình dưới dạng các cụm và sự tạo chồi đặc trưng của chúng.

Các trụ niệu

Các trụ niệu được hình thành ở các ống xa và các ống dẫn chung như là một kết quả của sự kết tủa mucoprotein Tamn - Horsfall. Chúng ngưng tập gần các bờ của lá men và được phát hiện tốt nhất trong một mẫu tươi quan sát dưới trường sáng nhẹ. Nếu nước tiểu không có các tế bào, thì có các trụ trong mờ. Các trụ có hồng cầu chỉ điểm bệnh viêm thận tiểu cầu hoặc bệnh viêm mạch. Các trụ bạch cầu hướng đến bệnh viêm thận - bể thận. Các trụ biểu mô với số lượng nhỏ là bình thường, nhưng với số lượng lớn thì chúng gợi ý đến bệnh bên trong thận. Các trụ hạt là do thoái hóa các trụ tế bào khác và cũng hướng đến bệnh trong thận.

Các tinh thể

Acid uric, oxalat, và các tinh thể cystin thường hay bị kết tủa trong nước tiểu, trái lại các tinh thể phosphat hay gặp ở nước tiểu kiềm. Sự có mặt của acid uric, phosphat, và các tinh thể oxalat có thể gặp ở người bình thường cũng như ở những người có sỏi. Các tinh thể cystin với hình dạng đặc trưng là vòng benzen, chỉ gặp ở người bệnh bị cystin niệu, và do đó chung có giá trị về mặt bệnh học.

Bài viết cùng chuyên mục

Khối u tinh hoàn

Trong khi nguyên nhân của ung thư tinh hoàn còn chưa rõ, cả yếu tố bẩm sinh và mắc phải cũng đi kèm với sự phát triển khối u.

Khối u ở thận

Những khối u thận thường được phát hiện đầu tiên bằng chụp hệ tiết niệu cản quang qua đường tĩnh mạch. Muốn đánh giá sâu hơn thì cần siêu âm để xác định xem u dạng rắn hay u dạng nang.

Ung thư niệu quản và bể thận

Những khối u bể thận và niệu quản phải được phân biệt với sỏi, cục máu, hoại tử nhú hoặc viêm, hoặc các tổn thương nhiễm trùng.

Bệnh học ung thư bàng quang

Phân tích nước tiểu sẽ phát hiện huyết niệu ở đa số các trường hợp, đôi khi, có thể kèm theo mủ niệu, vô niệu có thể có ở số lượng nhỏ.

Ung thư tuyến tiền liệt

Hầu hết các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ở nam giới đều không có triệu chứng rõ rệt mà chỉ có các cục khu trú hoặc những vùng rắn cứng.

Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính

Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có thể có các triệu chứng bài tiết kích thích và tắc nghẽn. Các triệu chứng tắc nghẽn bao gồm giảm áp lực và khẩu kính dòng nước tiểu, dòng nước tiểu ngắt quãng, và lưỡng lự đi tiểu.

Vô sinh nam

Nên phân tích tinh dịch sau 72 giờ kiêng không sinh hoạt tình dục. Nên phân tích mẫu tinh dịch trong vòng 1 giờ sau thu thập. Nồng độ tinh trùng bất thường là < 20 triệu/ml.

Bệnh sỏi tiết niệu

Chế độ ăn và dịch uống có thể là các yếu tố quan trọng trong sự phát triển của sỏi niệu. Người bị bệnh sỏi niệu tái phát được khuyến khích, duy trì một chế độ ăn hạn chế muối và protein.

Viêm mào tinh hoàn cấp

Siêu âm bìu có thể hỗ trợ trong chẩn đoán nếu việc thăm khám khó khăn do thủy tinh mạc hoặc có các vấn đề còn tồn đọng liên quan đến chẩn đoán.

Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn

Theo lập luận thì các nguyên nhân gây bệnh là chlamydia, mycoplasma, ureaplasma, và virus, song không có bằng chứng thực sự nào tồn tại.

Viêm tuyến tiền liệt mạn tính do vi khuẩn

Bệnh hậu môn có thể có chung một số triệu chứng như viêm tuyến tiền liệt, và khám thực thể sẽ phân biệt được chúng.

Viêm tuyến tiền liệt cấp do vi khuẩn

Công thức máu đầy đủ cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Phân tích nước tiểu thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau.

Viêm thận bể thận cấp

Công thức máu toàn phần cho thấy có tăng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển trái. Xét nghiệm nước tiểu có mủ niệu, vi khuẩn niệu, và các mức độ đái máu khác nhau. Các trụ bạch cầu có thể có.

Viêm bàng quang cấp

Xét nghiệm nước tiểu cho thấy có mủ niệu, vi khuẩn niệu và các mức độ đái máu khác nhau. Mức độ mủ niệu và vi khuẩn niệu không nhất thiết tương quan với mức độ nặng của các triệu chứng.

Rối loạn chức năng cương cứng nam giới và rối loạn chức năng tình dục

Mất cương cứng có thể do các nguyên nhân động mạch, tĩnh mạch, thần kinh hoặc tâm sinh, Các bệnh đang mắc có thể làm ảnh hưởng đến một hoặc nhiều cơ chế.

Mất chủ động tiểu tiện

Khai thác bệnh sử và tiền sử là bước quan trọng nhất trong đánh giá mất chủ động tiểu tiện. Nhật ký bài tiết do người bệnh chuẩn bị cũng có thể hỗ trợ cho đánh giá này.

Đau tuyến tiền liệt

Xét nghiệm nước tiểu bình thường sẽ phân biệt được với các quá trình nhiễm trùng cấp tính. Xét nghiệm các chất tiết tuyến tiền liệt được bóp ra sẽ phân biệt được.

Các nhiễm trùng đường sinh dục tiết niệu

Các nhiễm trùng đầu tiên là các nhiễm trùng lần đầu ở phụ nữ trẻ tuổi, Vi khuẩn niệu không giải quyết được xuất hiện khi đường niệu không được vô trùng trong suốt quá trình điều trị.

Tiếp cận và đánh giá đái máu

Các triệu chứng kích thích bài tiết, vi khuẩn niệu, và kết quả cấy nước tiểu dương tính ở nữ giới hướng đến nhiễm trùng đường tiết niệu.

Khám thực thể đánh giá bệnh niệu học

Bởi vì bên phải có gan, nên thận phải thấp hơn so với thận trái. Cực dưới của thận phải có thể sờ thấy được ở những bệnh nhân gầy, nhưng thận trái thường không sờ thấy được.

Đánh giá về bệnh sử niệu học

Đau niệu quản thường là cấp tính và do tắc nghẽn. Sự căng lên đi cùng với tăng nhu động và co thắt cơ trơn của niệu quản có thể dẫn đến hai kiểu đau khác nhau.