- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp
- Thở không khí ô nhiễm: chẩn đoán và điều trị
Thở không khí ô nhiễm: chẩn đoán và điều trị
Đường hô hấp tiếp xúc với nhiều chất độc hại trong môi trường trong đó có không khí ô nhiễm. Các cơ chế bảo vệ của đường hô hấp sẽ bảo vệ phổi trước những chất độc hại đó nhưng khi các cơ chế bảo vệ này bị tổn thương có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho đường hô hấp.
Các phát hiện lâm sàng
Phơi nhiễm với không khí ô nhiễm mức độ ít thì thường không quan trọng, mức độ nhiều thì gây triệu chứng kích thích đường hô hấp trên và dưới, đặc biệt ở bệnh nhân hen và COPD, không khí ô nhiễm ở thành thị có thể liên quan với tăng tỷ lệ tử vong.
Điều trị
Người khỏe mạnh tiếp xúc với không khí ô nhiễm thường trong chốc lát không cần các sự phòng ngừa đặc biệt. Bệnh nhân COPD nặng hoặc hen nên khuyên ở trong nhà và không nên hoạt động hăng hái qúa khi không khí ồ nhiễm nhiều.
Tiên lượng
Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó. Sau khi thở hít các oxid nitrogen, các hydrocarbon, hoặc ozon người lành thường phục hồi hoàn toàn. Đôi khi xảy ra viêm tiểu phế quản tắc nghẽn. Bệnh nhân có bệnh phổi tắc nghẽn trước đó có thể bệnh sẽ vượng lên nặng nề thậm chí có thể chết sau khi thở hít nhiều sullfur dioxid.
Bảng. Các chất ô nhiễm không khí chính, nguồn gốc của nó và các tác dụng phụ.
Chất độc hại
|
Nguồn |
Các tác dụng phụ |
Các oxid nitrogen |
Khí thoát từ ô tô, khí các bếp lò và các lò sưởi, các lò đốt gỗ, lò sưởi đốt dầu lừa |
Kích thích đường hô hấp, tăng hoạt động phế quản, suy giảm bảo vệ phối, viêm tiểu phế quản tắc nghẽn |
Các hydrocarbon |
Khí thoát từ ô tô, khói thuốc lá |
Ung thư phổi |
Ozon |
Khí thoát từ ô tô, tù máy bay, khí cầu ở dộ cao |
Ho, khó chịu sau xương ức, co thắt phế quản, giảm các hoạt động thể lực, kích thích đường hô hấp |
Sulfur dioxid |
Các nhà máy điện, lò nấu chảy kim loại, nhà máy lọc dầu, lò sưởi đốt bằng dầu hỏa |
Bệnh tăng lên ở người hen và COPD, kích thích đường hô hấp có thể cần vào viện. Những trường hợp tiếp xúc nhiều, có thể chết |
Bài xem nhiều nhất
Hội chứng tăng thông khí: chẩn đoán và điều trị
Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản: carcinoma
Nốt phổi đơn độc: chẩn đoán và điều trị
Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch
Bệnh xơ nang: chẩn đoán và điều trị
Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị
Tăng áp lực động mạch phổi: chẩn đoán và điều trị
Tràn dịch màng phổi: chẩn đoán và điều trị
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD: chẩn đoán và điều trị
Ung thư phổi thứ phát: chẩn đoán và điều trị
Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.
Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.
Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.
Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.
Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.
Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.
Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.
Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.
Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.
Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.