- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp
- Giãn phế quản: chẩn đoán và điều trị
Giãn phế quản: chẩn đoán và điều trị
Các bệnh đường thở có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chia thành các đặc trưng về lâm sàng và sinh lý bệnh nào đó. Dòng khí bị giới hạn là đặc điểm và là hậu qủa của tắc nghẽn đường thở ngay ở trong lòng đường thở, thành khí đạo bị dầy lên, hay tổn thất các mô kẽ chống đỡ cần để giữ cho khí đạo thông thoáng. Tăng xuất tiết niêm dịch, đường thở bị kích thích, các bất thường về trao đổi khí gây ra ho, xuất tiết đờm, khò khè và khó thở.
Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại. Xơ nang chiếm khoảng một nửa trong các nguyên nhân gây giãn phế quản. Các nguyên nhân khác gồm nhiễm khuẩn phổi (lao, nhiễm nấm, áp xe phổi, viêm phổi) bất thường trong các cơ chế bảo vệ phổi (suy giảm miễn dịch thể dịch, thiếu hụt alpha 1 antiprotease do hút thuốc lá, rối loạn thanh thải nhầy lông, các bệnh thấp) và tắc đường hô hấp khu trú (do dị vật, khối u, đóng quánh chất niêm dịch). Các tình trạng suy giảm miễn dịch có thể dẫn đến giãn phế quản gồm thiếu hụt toàn thể gamma globulin mắc phải, suy giảm miễn dịch thông thường; thiếu hụt chọn lựa các dưới nhóm IgA, IgM và IgG, suy giảm miễn dịch mắc phải do điều trị độc hại tới gan, AIDS, u lympho, u tủy phức tạp, bệnh bạch cầu, bệnh thận và gan mạn tính. Tuy nhiên hầu hết bệnh nhàn giãn phế quản có tăng toàn thể gamma globulin trong máu phản ánh đáp ứng của hệ thống miễn dịch với nhiễm khuẩn đường thở mạn tính. Giãn phế quản tiên phát mắc phải hiện nay ít gặp ở Hoa Kỳ vì đã kiểm soát được tốt các nhiễm khuẩn phổi phế quản.
Triệu chứng của giằn phế quản gồm ho mạn tính, đờm mủ xuất tiết nhiều, ho ra máu và viêm phổi tái đi tái lại. Sụt cân, thiếu máu và các biểu hiện khác cũng thường gặp. Khám thực thể không có gì đặc hiệu nhưng thường có tiếng rên nổ tồn tại ở các vùng thấp của phổi. Thường có móng tay khum. Đờm mủ nhiều, hôi thối; để trong cốc lắng làm 3 lớp là một đặc trưng. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn với thiếu oxy máu có trong giãn phế quản trung bình hoặc nặng. Các hình bất thường khi chụp X quang gồm có hình các phế quản dầy đặc do xơ quanh phế quản và có các khoang nang nhỏ ở đáy phổi. Chụp CT cắt lớp mỏng (1,5 mm) có thể phát hiện các trường hợp vừa cho tới nặng. Chụp phế quản hiện nay ít làm.
Điều trị gồm cho kháng sinh (dựa trên soi trực tiếp và cấy đờm), lý liệu pháp lồng ngực hàng ngày với dẫn lưu tư thế, vỗ rung lồng ngực, thở hít các thuốc giãn phế quản. Cho kháng sinh uống dựa trên kinh nghiệm 10 - 14 ngày với amoxicillin clavulinat (500 mgmỗi 8 giờ), ampicillin hay tetracyclin (250 - 500mg 4 lần một ngày) hay trimethoprim - sulfamethoxazol (160/800mg mỗi 12 giờ) là hợp lý khi có đợt vượng bệnh cấp. Các kháng sinh nói trên cho từng đợt cách quãng 2 - 3 thứ, uống trong 2 - 4 tuần, đôi khi dùng cho các bệnh nhân giãn phế quản ổn định có đờm nhiều, có mủ. Vai trò của khí dung kháng sinh còn chưa được xác minh. Soi phế quản đôi khi cần để lượng định ho ra máu, hút các xuất tiết ứ đọng, loại trừ các tổn thương đường thở tắc nghẽn. Phẫu thuật cắt bỏ dành cho số ít bệnh nhân có giãn phế quản khu trú, chức năng phổi đảm bảo, điều trị bảo tồn thất bại. Phẫu thuật cũng được chỉ định khi có ho ra máu nặng. Các biến chứng của giãn phế quản gồm tâm phế mạn, thoái hóa dạng tinh bột, các áp xe tạng thứ phát ở nhiều nơi như não.
Bài xem nhiều nhất
Hội chứng tăng thông khí: chẩn đoán và điều trị
Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản: carcinoma
Nốt phổi đơn độc: chẩn đoán và điều trị
Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch
Bệnh xơ nang: chẩn đoán và điều trị
Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị
Tăng áp lực động mạch phổi: chẩn đoán và điều trị
Tràn dịch màng phổi: chẩn đoán và điều trị
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD: chẩn đoán và điều trị
Ung thư phổi thứ phát: chẩn đoán và điều trị
Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.
Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.
Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.
Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.
Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.
Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.
Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.
Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.
Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.
Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.