- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp
- Các hội chứng chảy máu phế nang: chẩn đoán và điều trị
Các hội chứng chảy máu phế nang: chẩn đoán và điều trị
Chảy máu phế nang lan tỏa cố thể xảy ra trong các rối loạn miễn dịch và không miễn dịch rất khác nhau. Những nguyên nhân của chảy máu phế nang miễn dịch được xếp loại như bệnh kháng thể màng chống màng đáy (hội chứng Goodpasture), bệnh mạch tạo keo và viêm mạch (luput ban đỏ hệ thống và các bệnh khác) và viêm cầu thận tiến triển nhanh tự phát. Ho ra máu, các thâm nhiễm phế nang thấy trên phim X quang, thiếu máu, khó thở, và đôi khi sốt là các đặc điểm của bệnh.
Các nguyên nhân không tự miễn của chảy máu lan tỏa gồm bệnh lý về đông máu, hẹp van hai lá, nhiễm khuẩn phổi hoại thư, các thuốc (penicillamin), các độc tố (trimellitic anhydrid) và nhiễm hemosiderin phổi tự phát. Rửa phế quản phế nang giúp cho việc xác định bệnh dù chảy máu lan tỏa có cơ sở miễn dịch hay là nhiễm khuẩn. Các thâm nhiễm phổi lan tỏa rõ rệt nhanh chóng mất đi trong vòng 2 ngày là chứng cứ để chẩn đoán có thể đó là chảy máu phế nang lan tỏa.
Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận. Hội chứng Goodpasture xảy ra chủ yếu ở nam giói 30 - 40 tuổi. Ho ra máu là triệu chứng biểu hiện thông thường nhưng chảy máu phổi có thể bị che lấp. Khó thở, ho, thiếu oxy máu và các thâm nhiễm phế nang hai bên lan tỏa là các biểu hiện điển hình. Thiếu máu do thiếu sắt và đái máu vi thể thường gặp. Chẩn đoán dựa trên các lắng đọng IgG thành dải đặc hiệu trong cầu thận khi làm miễn dịch huỳnh quang và trên sự có mặt của kháng thể màng kháng lại màng đáy cầu thận có trong huyết thanh. Người thầy thuốc gắng phân biệt hội chứng Goodpasture với các hội chứng phổi - thận khác trong đó có luput ban đỏ, viêm cầu thận tiến triển nhanh, u hạt Wegener, viêm mạch hoại tử hệ thống và bệnh do thuốc gây ra (penicillamin, trimellitic anhydrid). Phối hợp các thuốc giảm miễn dịch (methylprednisolon với cyclophosphamid) và điều trị bằng huyết tương đã tinh chế có được những kết qủa rất tốt trong những năm gần đây. Đôi khi bệnh thoái lui lâu dài.
Nhiễm hemosiderin phổi tự phát là một bệnh của trẻ em hoặc người lớn tuổi còn trẻ đặc trưng bởi chảy máu phổi hồi qui, ngược với hội chứng Goodpasture, thận bị tổn thương và các kháng thể màng kháng màng đáy thận không có. Điều trị các giai đoạn cấp của chảy máu bằng corticosteroid có thể kết qủa trong xơ kẽ.
Bài mới nhất
Hội chứng tăng thông khí: chẩn đoán và điều trị
Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản: carcinoma
Nốt phổi đơn độc: chẩn đoán và điều trị
Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch
Bệnh xơ nang: chẩn đoán và điều trị
Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị
Tăng áp lực động mạch phổi: chẩn đoán và điều trị
Tràn dịch màng phổi: chẩn đoán và điều trị
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD: chẩn đoán và điều trị
Ung thư phổi thứ phát: chẩn đoán và điều trị
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện: chẩn đoán và điều trị
Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick
Tràn khí màng phổi tự phát: chẩn đoán và điều trị
Viêm khí phế quản cấp: chẩn đoán và điều trị
Tắc đường hô hấp: chẩn đoán và điều trị
Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.
Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.
Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.
Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.
Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.
Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.
Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.
Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.
Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.
Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.
Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.
Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.
Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.
Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.