Gan nhiễm mỡ và viêm gan mỡ không do rượu

2016-05-01 03:20 PM

Thọái hóa mỡ vi mạch gặp trong hội chứng Reye, ngộ độc acid valproic, liều cao tetracyclin, hoặc gan nhiễm mỡ cấp tính lúc có thai và có thể dẫn đến suy gan tối cấp.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Trước đây người ta cho rằng suy dinh dưỡng có thể gây thoái hóa mỡ ở gan (gan nhiễm mỡ) hơn là ethanol ở người nghiện rượu. Tuy nhiên, điều rõ ràng hiện nay là ethanol là độc tố gan ở người nghiện rượu không có suy dinh dưỡng. Nhưng chế độ ăn uống không đầy đủ, đặc biệt là thiếu hụt cholin, methionin và protein có thể góp phần gây tổn thưong gan do ethanol.

Những nguyên nhân không do rượu khác gây thoái hóa mỡ là béo phì (nguyên nhân phổ biến nhất), đói, đái tháo đường, các corticosteroid, các chất độc (carbon tetrachlorid và phospho vàng), các bệnh nội tiết như hội chứng Cushing, tăng lipid máu, giảm betalipoprotein máu và dinh dưỡng toàn bộ ngoài đường tiêu hóa. Trong nhiều trường hợp, các yếu tố nguy cữ như béo phì hoặc đái tháo đường là không có. Ngoài thoái hóa mỡ các mạch máu lớn, các biểu hiện về mặt mô học có thể bao gồm thâm nhiễm khu trú các bạch cầu đa nhân trung tính và hyalin Mallory, là bệnh cảnh không thể phân biệt với viêm gan do rượu và được đề cập như là bệnh gan mỡ không do rượu.

Thọái hóa mỡ vi mạch gặp trong hội chứng Reye, ngộ độc acid valproic, liều cao tetracyclin, hoặc gan nhiễm mỡ cấp tính lúc có thai và có thể dẫn đến suy gan tối cấp.

Có một vài yếu tố, hoạt động ở nhiều dạng kết hợp, có thể gây tích tụ chất béo trong gan (T) tăng huy động các acid béo từ những lắng cặn mỡ ngoại vi; (2) gan giảm sử dụng hoặc oxy hóa các acid béo; (3) tăng tổng hợp acid béo ở gan; (4) tăng ester hóa các chất acid béo thành các triglycerid; và (5) giảm tiết hoặc giải phóng các chất béo khỏi gan. Những bệnh nhân viêm gan mỡ không do rượu thường có quá tải sắt gan nhẹ và một nghiên cứu gần đây đã gợi ý rằng những bệnh nhân như vậy thường mang gen ứng cử cho bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (HFE); tăng sắt ở những bệnh nhân này tương quan với xơ hóa gan. Nghiên cứu khác cũng gợi ý rằng nồng độ cytochrom P450 2E1 ở gan tăng lên ở những bệnh nhân viêm gan mỡ không do rượu khi họ bị bệnh gan do rượu. Một số phụ nữ bị gan nhiễm mỡ trong lúc mang thai đã được phát hiện do có thiếu hụt sự oxy hóa acid béo do giảm hoạt độ của 3- hydroxyacyl- CoA- dehydrogenase chuỗi dài.

Các xét nghiệm chức năng gan có thể cho thấy có tăng nhẹ mức aminotransterase và phosphotase kiềm. Thoái hóa mỡ các mạch máu lớn có thể được phát hiện một cách dễ dàng trên MRl. Sinh thiết gan qua da có thể cho chẩn đoán nhưng thường không cần thiết.

Điều trị bao gồm loại bỏ hoặc thay đổi yếu tố gây bệnh. Lợi ích của việc giảm cân, chế độ ăn hạn chế mỡ và luyện tập ở những bệnh nhân béo phì vẫn còn nhiều tranh luận, Ursodeoxycholic acid liều 13- 15 mg/kg/ngày có thể cải thiện kết quả xét nghiệm chức năng gan, nhưng lợi ích của loại thuốc này về mô học gan cần phải nghiên cứu thêm. Thử nghiệm gần đây gợi ý rằng gan thoái hóa mỡ do dinh dưỡng toàn bộ ngoài đường tiêu hóa có thể được cải thiện và có lẽ là cả phòng ngừa bằng bổ sung cholin.

Tiên lượng phụ thuộc vào bệnh cơ bản.

Bài viết cùng chuyên mục

Carcinoma tụy và vùng quanh bóng Vater

Với carcinoma đầu tụy, chụp phim hàng loạt đường tiêu hóa trên có thể cho thấy có sự giãn rộng của quai tá tràng, những bất thường niêm mạc của tá tràng.

Viêm tụy cấp

Đau bụng vùng thượng vị, thường khởi phát đột ngột, và đau liên tục, dữ dội, nặng hơn khi đi lại, nằm ngửa và giảm khi ngồi ngả người ra phía trước.

Carcinoma đường mật

Hoàng đảm tăng lên là dấu hiệu phổ biến nhất và thường là dấu hiệu đầu tiên của tắc nghẽn hệ thống đường mật ngoài gan, Đau thường có ở phần tư trên bên phải của bụng.

Viêm ống mật xơ hóa nguyên phát

Về mặt lâm sàng, bệnh biểu hiện như hoàng đảm tắc nghẽn tăng dần, thường kèm theo khó chịu, ngứa, chán ăn và tiêu hóa kém.

Chít hẹp đường mật

Viêm đường mật là biến chứng phổ biến nhất của chít hẹp, Điển hình là bệnh nhân trải qua những giai đoạn có đau, sốt, ớn lạnh, và hoàng đảm.

Sỏi mật

Sỏi mật được xếp loại theo thành phần hóa học như sỏi có chứa chủ yếu cholesterol và chứa chủ yếu calci bilirubinat. Loại sau ít hơn 20% sỏi ở châu Âu hoặc Mỹ nhưng chiếm 30- 40% sỏi ở Nhật Bản.

Khối u gan lành tính

Trong một số trường hợp được lựa chọn, cắt qua nội soi có thể là dễ dàng. Sự thoái lui của những khối u gan lành tính có thể xảy ra sau khi ngừng các viên uống tránh thai.

Carcinoma tế bào gan

Về mặt mô học, carcinoma tế bào gan được hình thành từ các dây hoặc dải tế bào đại khái giống nhu mô gan. Những mạch máu như tĩnh mạch cửa hoặc gan thường bị ảnh hưởng do khối u.

Áp xe gan sinh mủ

Sốt hầu như luôn có và có thể xảy ra trước các triệu chứng hoặc dấu hiệu khác, Đau có thể là triệu chứng nổi bật và khu trú ở hạ sườn phải hoặc thượng vị

Tăng áp lực tĩnh mạch cửa không do xơ gan

Chụp mạch hệ cửa sẽ xác nhận, như khi sinh thiết bằng kim ở gan, nhất là bệnh sán máng và xơ hóa tĩnh mạch cửa trong gan không do xơ gan.

Tắc tĩnh mạch gan: hội chứng Budd Chiari

Những biểu hiện lâm sàng có thể bao gồm gan to đau, nhạy cảm đau; hoàng đảm; lách to; và cổ trướng. Khi bệnh tiến triển, giãn tĩnh mạch chảy máu và hôn mê gan có thể là rõ rệt.

Bệnh Wilson

Nhận biết bệnh là quan trọng vì bệnh có thể giống như ở viêm gan mạn tính, các rối loạn tâm thần hoặc bệnh thần kinh, Bệnh có thể hồi phục và điều trị thích hợp.

Nhiễm sắc tố sắt mô

Những trường hợp dị hợp tử sẽ không xuất hiện nhưng biến chứng của quá tải sắt khi không có các bệnh kèm theo như viêm gan virus.

Viêm gan do rượu

Sinh thiết gan thường là để chẩn đoán và chỉ ra sự thâm nhiễm PMN, mỡ ở mạch máu lớn với hoại tử gan, và các thể Mallory (hyalin cồn). Xơ gan dạng nốt nhỏ có thể có.

Viêm gan mãn tính

Ớ những bệnh nhân viêm gan tự miễn, prednison dùng cùng với azathioprin hoặc không được cho là cải thiện các triệu chứng, làm giảm bilirubin, aminotransferase.

Suy gan tối cấp

Trong suy gan tối cấp do viêm gan, hoại tử lan rộng những vùng gan lớn gây bệnh cảnh mô bệnh học điển hình của teo gan. Nhiễm độc huyết, các triệu chứng dạ dày ruột và hiện tượng xuất huyết là thường gặp.

Viêm gan virus

Ở những người tổn thương miễn dịch, nên cân nhắc chẩn đoán phân biệt viêm gan, với nhiễm cytomegalovirus, Epstein Barr virus.

Viêm tụy mạn tính

Những đợt tái phát, hoặc dai dẳng của đau vùng thượng vị, và phần tư bụng trên bên trái lan tới vùng lưng trên bên trái là điển hình.

Bệnh sỏi ống mật chủ và viêm đường mật

Có bilirubin niệu và tăng bilirubin huyết thanh nếu ống mật chủ bị tắc nghẽn; mức độ thường dao động. Tăng phosphatase kiềm huyết thanh đặc biệt gợi ý tới hoàng đảm có tắc nghẽn.

Các hội chứng ống túi mật

Sau cắt bỏ túi mật, một số bệnh nhân phàn nàn là các triệu chứng vẫn tiếp tục như đau phần tư bụng trên bên phải, đầy hơi, và không dung nạp thức ăn mỡ.

Viêm túi mật cấp

Cơn cấp thường được thúc đẩy bởi một bữa ăn quá no hoặc quá nhiều chất béo và được đặc trưng bằng sự xuất hiện tương đối đột ngột của đau bụng liên tục và dữ dội.

Áp xe gan do amíp

Thường quan sát thấy nửa cơ hoành bên phải nhô cao lên trên chụp phim X quang ngực, Siêu âm, CT scan hoặc MRI là có giá trị trong xác định vị trí và số lượng áp xe.

Chẩn đoán vấn đề gan trong suy tim

Tỷ lệ tử vong do bệnh cơ bản là cao nhưng ở những bệnh nhân có thể hồi phục, mức aminotransferase trở lại bình thường nhanh chóng, thường trong vòng 1 tuần - ngược với viêm gan virus.

Xơ gan mật tiên phát

Nhiều bệnh nhân không có triệu chứng trong nhiều năm và thời gian sống trung bình sau khi các triệu chứng xuất hiện là 10 năm. Khởi phát bệnh âm thầm và được báo trước bằng biểu hiện ngứa.

Xơ gan

Xơ gan nốt to được đặc trưng bằng những nốt lớn có thể đo được vài centimet đường kính và có thể có các tĩnh mạch ở trung tâm, Thể này ít nhiều phù hợp với xơ gan.

Bệnh gan nhiễm độc và do thuốc

Ảnh hưởng trực tiếp của thuốc trên các cơ chế tiết mật như azathioprin, estrogen, hoặc các steroid đồng hóa chứa nhóm alkyl hoặc ethinyl ở carbon 17, mercaptopurin, methyltestosteron và cyclosporin.

Chẩn đoán hoàng đản

Màu sắc của phân và nước tiểu bình thường, có hoàng đảm nhẹ, tăng bilirubin gián tiếp trong máu nhưng không có bilirubin trong nước tiểu và lách to.