Đánh giá tình trạng dinh dưỡng

2016-02-23 08:51 PM

Nên khám thực thể tập trung vào mặt dinh dưỡng trên từng bệnh nhân có nguy cơ về các vấn đề dinh dưỡng. Khám nhấn mạnh vào sự mỏi cơ, dự trữ mỡ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Không một thử nghiệm sinh hóa hoặc kỹ thuật lâm sàng đơn lẻ nào đủ chính xác để được xem xét như là thử nghiệm đáng tin cậy cho tình trạng suy dinh dưỡng. Các kỹ thuật đánh giá tình trạng dinh dưỡng sử dụng kết hợp các phương pháp, bao gồm đánh giá chế độ ăn, phương pháp nhân trắc học, khám lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng.

Tiền sử chế độ ăn

Bệnh nhân được khai thác tiền sử và khám thực thể cần được hỏi những câu hỏi giúp xác định những bệnh nhân có nguy cơ cao cần đánh giá sâu hơn về suy dinh dưỡng. Điều đặc biệt quan trọng là sự cân đối và đa dạng của các bữa ăn; bệnh nhân đi cửa hàng và mua đồ ăn chế biến sẵn; những thay đổi gần đây về sự ngon miệng, lượng thức ăn ăn vào hoặc cân nặng cơ thể; sử dụng chế độ ăn đặc biệt hoặc chế độ ăn bổ sung; sử dụng rượu, thuốc hoặc dược phẩm; sự ưa thích và dị ứng thức ăn; và các bệnh ảnh hưởng tới lượng thức ăn ăn vào, mất đi hoặc nhu cầu về dinh dưỡng. Những bệnh nhân nhiều tuổi và thanh niên, phụ nữ có thai hoặc cho con bú, nghèo hoặc bị cô lập về mặt xã hội sẽ có nguy cơ đặc biệt về các vấn đề dinh dưỡng.

Có thể dùng các phương pháp khác nhau để xác định số lượng thức ăn ăn vào. Nhớ lại chế độ ăn 24 giờ sẽ cho cách ước lượng sơ bộ về các chất dinh dưỡng đưa vào. Bệnh nhân được đề nghị mô tả chế độ ăn của họ trong cả ngày hôm trước, bao gồm cả bữa phụ, đồ uống và rượu. Những vấn đề xảy ra khi dùng phương pháp này là sự ghi lại không chính xác, sự khó khăn trong cách ước lượng khẩu phần ăn, và vấn đề khái quát hóa từ lượng thức ăn đưa vào chỉ trong một ngày. Có thể thu được thông tin chính xác hơn bằng cách đề nghị bệnh nhân ghi lại đầy đủ chế độ ăn trong 3 - 5 ngày. Sau đó phân tích thành phần dinh dưỡng với sự trợ giúp của sách vở hoặc phần mềm máy tính chuẩn. Mặc dù ít có khả năng là không có căn cứ do sự nhầm lẫn của trí nhớ thì sự bỏ sót vẫn thường gặp cũng như khó khăn thường lệ trong việc ước tính khẩu phần ăn.

Khám lâm sàng

Nên khám thực thể tập trung vào mặt dinh dưỡng trên từng bệnh nhân có nguy cơ về các vấn đề dinh dưỡng. Khám nhấn mạnh vào sự mỏi cơ, dự trữ mỡ, kích thước cơ thể, và các dấu hiệu của sự thiếu hụt vi chất.

Đánh giá cân nặng là đặc biệt hữu ích. Trọng lượng cơ thể trong mối liên quan với chiều cao được đánh giá bằng cân nặng tương đối [cân nặng hiện tại/ cân nặng lý tưởng x 100] hoặc bằng chỉ số khối cơ thể [trọng lượng (tính bằng kg)/ bình phương chiều cao (tính bằng mét vuông)]. Tuy nhiên, ở bệnh nhân trưởng thành thì sự thay đổi gần đây về trọng lượng cơ thể mà thường là chỉ số về dinh dưỡng tốt hơn là cân nặng tương đối thấp hoặc chỉ số khối cơ thể thấp. Những thay đổi về trọng lượng cơ thể được biểu thị tốt nhất bằng phần trăm cân nặng mất đi/ đơn vị thời gian. Mất 10% hoặc hơn của cân nặng thông thường trong 1- 2 tháng nhìn chung được tiên đoán là kết quả tồi trên lâm sàng.

Ước lượng thành phần cơ thể - đặc biệt là dự trữ mỡ và cơ xương có thể được tiến hành với quan sát bằng mắt hoặc một cách định lượng hơn là dùng các số đo nhân trắc học mà phổ biến nhất là nếp gấp da cơ tam đầu và chu vi của cơ cánh tay giữa. Vì những khác biệt giữa các cá thể và kỹ thuật trong phương pháp này mà nó được sử dụng một cách hạn chế trên lâm sàng.

Có nhiều phương pháp tinh vi hơn để đánh giá thành phần cơ thể. Hầu hết là ít có vai trò trong chăm sóc bệnh nhân. Những kỹ thuật này bao gồm phân tích trở kháng sinh học, dẫn suất điện cơ thể toàn phần, hấp thu lưỡng năng lượng tia X (đo mật độ xương), cân ở dưới nước, nước và kali có thể toàn phần và phân tích sự hoạt hóa neutron, và MRI.

Các xét nghiệm

Albumin huyết thanh là xét nghiệm quan trọng nhất để chẩn đoán suy dinh dưỡng protein - năng lượng. Hầu hết bệnh nhân thiếu protein nặng sẽ có mức albumin huyết thanh thấp. Nhiều tình trạng không phải do dinh dưỡng cũng có thể làm giảm albumin huyết thanh, nhất là bệnh gan và bệnh toàn thân nặng. Các protein huyết thanh khác với thời gian bán hủy ngắn (transferrin, transthyretin...) có thể phản ánh những thay đổi nhất thời trong tình trạng dinh dưỡng nhưng bị những thiếu hụt tương tự.

Các xét nghiệm về số lượng và chất lượng của miễn dịch tế bào cũng bất thường ở nhiều bệnh nhân suy dinh dưỡng protein - năng lượng. Các phương pháp xác định số lượng lympho bào toàn phần và phản ứng quá mẫn muộn với các kháng nguyên thử trên da thông thường là không đặc hiệu; những bất thường có thể do các yếu tố  khác ngoài dinh dưỡng.

Mặc dù giá trị chẩn đoán là chưa chắc chắn nhưng những xét nghiệm này được sử dụng để tiên lượng. Những bệnh nhân có các tham số đánh giá dinh dưỡng bất thường thì sẽ có các kết quả xấu tăng rõ trên lâm sàng.

Mặc dù áp dụng tiền sử tập trung về mặt dinh dưỡng, khám thực thể, các xét nghiệm thì vẫn thường khó chẩn đoán xác định suy dinh dưỡng. Theo dõi chế độ ăn trong quá trình nằm viện là có ích. Lượng calo ước tính năng lượng và protein đưa vào dùng để so sánh với nhu cầu của cơ thể.

Bảng. Các dấu hiệu lâm sàng có thể do thiếu hụt dinh dưỡng

 Các dấu hiệu lâm sàng có thể do thiếu hụt dinh dưỡng

Bảng. Trọng lượng có thể chấp nhận (tính bằng pao không kể giầy và quần áo) cho nam và nữ giới, 19961

Trọng lượng có thể chấp nhận (tính bằng pao không kể giầy và quần áo) cho nam và nữ giới 

1Bộ Y tế và nhân lực Mỹ, 1996.

Bài viết cùng chuyên mục

Theo dõi bệnh nhân trong quá trình hỗ trợ dinh dưỡng

Những bệnh nhân có cân bằng nitơ dương tính có thể được tiếp tục chế độ hiện tại của họ, những bệnh nhân có cân bằng nitơ âm tính thì nên tăng vừa phải lượng calo và protein đưa vào, sau đó đánh giá lại.

Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa

Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra ở trên 50% số bệnh nhân. Hầu hết là nhẹ và dễ xử trí, hiếm khi cần phải ngừng hỗ trợ dinh dưỡng.

Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa

Chất béo đường tĩnh mạch, cũng có thể được dùng, cho những bệnh nhân nhận hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm.

Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa

Các biến chứng chuyển hóa trong hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa là hay gặp nhưng trong hầu hết các trường hợp là dễ xử trí.

Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa

Các dung dịch chứa các protein thủy phân hoặc các acid amin kết tinh có thành phần chất béo không đáng kể được gọi là dung dịch cơ bản vì các chất dinh dưỡng đa lượng.

Nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân

Hầu hết dung dịch đường tiêu hóa trộn sẵn đều cung cấp đầy đủ các vitamin, các khoáng chất cũng như lượng calo đầy đủ.

Hỗ trợ dinh dưỡng cho bệnh nhân

Chú ý tới sở thích của bệnh nhân, thời gian của những bữa ăn, các thủ thuật chẩn đoán, sử dụng thuốc, và việc sử dụng các thức ăn do gia đình và bạn bè mang tới bệnh viện.

Chế độ ăn bổ xung dinh dưỡng trị liệu

Chất xơ trong chế độ ăn là một nhóm nhiều loại thực vật khác nhau và hệ tiêu hóa của người không tiêu hóa được. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ có khoảng 5 - 10g chất xơ từ thức ăn mỗi ngày.

Chế độ ăn hạn chế chất dinh dưỡng trị liệu

Chế độ ăn 1000 mg muối cần hạn chế thêm nữa những thức ăn thường ngày. Hiện nay có sẵn các thức ăn có natri thấp đặc biệt để giúp cho chế độ ăn như vậy.

Chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn trị liệu

Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin E

Thiếu hụt vitamin E trên lâm sàng phổ biến nhất là do kém hấp thu nặng, không có betalipoprotein huyết di truyền hoặc ở trẻ em là bệnh gan ứ mật mạn tính, tịt đường mật hoặc xơ hóa nang.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin A

Thiếu hụt vitamin A là một trong những hội chứng thiếu hụt vitamin phổ biến nhất, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những vùng này, thiếu vitamin A là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin C

Biểu hiện sớm của thiếu hụt vitamin C là không đặc hiệu và bao gồm mệt, yếu. Ở những giai đoạn tiến triển hơn, biểu hiện điển hình của bệnh Scorbut (thiếu vitamin C) xuất hiện.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin Pyridoxin

Thiếu hụt vitamin B6 thường xảy ra nhất như là hậu quả của sự tương tác của các thuốc, đặc biệt là isoniazid, cycloserin, penicillamin, và các thuốc uống tránh thai hoặc ở người nghiện rượu.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin Niacin

Về mặt tiền sử, thiếu hụt niacin xảy ra ở những nơi khi mà ngô là nguồn năng lượng chính. Hiện tại, thiếu hụt niacin phổ biến hơn do nghiện rượu.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin Riboflavin

Riboflavin, coenzym flavin mononucleotid và flavin adenin dinucleotid, tham gia vào nhiều phản ứng oxy hóa khử khác nhau và là thành phần thiết yếu của nhiều enzym khác.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin thiamin

Vai trò chính của thiamin là tiền chất của thiamin pyrophosphat, một coenzym cần cho một số phản ứng sinh học quan trọng, cần thiết cho quá trình oxy hóa carbonhydrat.

Ăn vô độ tâm thần

Một số bệnh nhân bị chứng ăn vô độ cũng có dạng chán ần tâm thần ẩn với sụt cân rõ rệt và vô kinh. Khía cạnh gia đình và tâm lý nhìn chung tương tự như đối với những bệnh nhân chán ăn tâm thần.

Chán ăn tâm thần

Có nhiều bất thường về nội tiết tồn tại ở những bệnh nhân này, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng chúng chỉ là thứ phát do suy dinh dưỡng và không phải là những rối loạn tiên phát.

Béo phì

Béo phì được định nghĩa như là tình trạng có quá nhiều mô mỡ. Sự xác định chính xác mô mỡ cần những kỹ thuật tinh vi nhưng lại chưa phổ biến trong thực tiễn lâm sàng.

Suy dinh dưỡng protein năng lượng

Suy dinh dưỡng protein năng lượng xảy ra như là hậu quả của sự thiếu hụt tương đối hoặc tuyệt đối năng lượng và protein.

Lời khuyên về ăn uống, tương tác chất dinh dưỡng và thuốc

Lượng thức ăn tính như một khẩu phần được đưa ra ở tên dưới. Nếu bạn cần ăn phần lớn hơn thì tính hơn một khẩu phần. Ví dụ, suất ăn tối bằng mỳ ý có thể tính là 2 - 3 khẩu phần tinh bột.

Nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể

Nhu cầu dinh dưỡng không chỉ thay đổi ở từng cá thể mà còn thay đổi từng ngày và từng đối tượng. Chúng cũng khác nhau theo tuổi, giới, kích thước cơ thể, trong quá trình mang thai và cho con bú.