- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh mắt
- Tật khúc xạ: chẩn đoán và điều trị
Tật khúc xạ: chẩn đoán và điều trị
Tật khúc xạ, là nguyện nhân phổ biến nhất gây nhìn mờ.
Trong chính thị (tình trạng bình thường) những vật ở vô cực được mắt không điều tiết nhìn thấy rõ. Vật ở gần hơn vô cực được nhìn rõ khi mắt điều tiết. Điều tiết làm tăng khả năng khúc xạ của thủy tinh thể. Trong viễn thị vật ở vô cực không được nhìn rõ trừ phi điều tiết và những vật ở gần có thể không nhìn thấy vì khả năng điều tiết không phải là vô hạn. Viễn thị được điều chỉnh bằng kính có độ điôp dương (+). Trong cận thị mắt không điều tiết đem lại một tiêu điểm những hình ảnh của một vật gần hơn vô cực. Khoảng cách giữa vật và mắt cận thị ngày càng thu ngắn khi độ cận thị càng tăng (như vậy, cận thị nặng có khả năng tập trung vào những vật ở thật gần mà không cần kính). Tuy nhiên những vật ở ngoài khoảng cách ấy không thể được nhìn rõ nếu không có kính điều chỉnh (kính lõm, độ điốp âm (-)). Trong loạn thị những tật khúc xạ ở các kinh tuyến dọc và ngang khác nhau. Có nhiều kỹ thuật phẫu thuật có giá trị để điều chỉnh tật khúc xạ, đặc biệt là cận thị. Cắt giác mạc bằng tia sáng trong đó có cả tia laser được áp dụng để gọt lại giác mạc trước đang có xu hướng trở thành phẫu thuật được áp dụng nhiều nhất. Lão thị là sự mất tự nhiên của khả năng điều tiết khi tuổi tăng. Những mắt trước đó là chính thị đánh giá thấy dần dần mất khả năng tập trung vào khoảng cách đọc sách ở tuổi khoảng 45. Mắt viễn thị thấy các triệu chứng này ở độ tuổi thấp hơn. Lão thị được điều chỉnh bằng kính có số điôp (+). Việc dùng kính có lỗ sẽ phát hiện các tật khúc xạ và cho phép loại trừ các tật khúc xạ và loại trừ nó như một nguyên nhân gây mất thị lực.
Tật khúc xạ nhất thời xuất hiện trong đái tháo đường và có khi lại là dấu hiệu biểu thị bệnh. Tự tiêm scorpolamin để chống nôn khi say sóng hay dùng tropin từ những lọ nhỏ mắt dẫn đến giãn đồng tử và mất điều tiết.
Bài mới nhất
Những điều cần chú ý khi xử trí tổn thương mắt
Các kỹ thuật dùng trong điều trị tổn thương mắt
Nguyên tắc điều trị các nhiễm khuẩn mắt: chẩn đoán và điều trị
Viêm kết mạc và giác mạc do hóa chất: chẩn đoán và điều trị
Viêm giác mạc do tia cực tím: chẩn đoán và điều trị
Tổn thương xé rách ở mắt: chẩn đoán và điều trị
Đụng giập mắt: chẩn đoán và điều trị
Xước giác mạc: chẩn đoán và điều trị
Dị vật nội nhãn: chẩn đoán và điều trị
Di vật kết giác mạc: chẩn đoán và điều trị
Viêm tổ chức hốc mắt: chẩn đoán và điều trị
Bệnh mắt do bệnh tuyến giáp trạng: chẩn đoán và điều trị
Liệt vận nhãn: chẩn đoán và điều trị
Phù gai thị: chẩn đoán và điều trị
Viêm thần kinh thị giác: chẩn đoán và điều trị
Cảm giác bỏng hoặc đau nhức được tạo nên do tra thuốc hoặc đặt kính tiếp xúc, đôi khi xơ hóa hoặc sẹo hóa kết giác mạc có thể xuất hiện.
Khi bệnh nhân tự tra thuốc, kỹ thuật trên vẫn được áp dụng, trừ trường hợp thuốc cần tra với bệnh nhân ở tư thế nằm.
Sulfomid còn có thuận lợi thêm là ít gây dị ứng và có tác dụng chống nhóm chlamydia. Thuốc có thể dùng dưới dạng mỡ hoặc nước.
Cần bắt đầu ngay tra kháng sinh tại chỗ. Trong bỏng vừa và nặng, cần tra nhiều corticoid và vitamin C tại chỗ và toàn thân.
Khám bằng đèn khe sau khi tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng sẽ phát hiện chấm tỏa lan bắt mầu ở cả hai giác mạc.
Mắt được băng nhẹ và bảo vệ bằng một vỏ kim khí, dựa trên xương hốc mắt trên và dưới. Bệnh nhân cần được hướng dẫn không bóp vào mắt đã nhắm kín để mát càng yên càng tốt.
Một tổn thương đủ trầm trọng để gây chảy máu tiền phòng tạo nên nguy cơ thoát huyết tái phát, có thể gây glocom khó chữa và mất thị lực vĩnh viễn.
Nếu nghi ngờ có trầy xước giác mạc mà không phát hiện được cần tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng vào túi kết mạc.
Những bệnh nhân này cần được điều trị như giác mạc bị xé rách và gửi ngay đến bác sĩ nhãn khoa.
Cần nhấn mạnh là biểu mô giác mạc nguyên vẹn là một hàng rào có ích để chống nhiễm khuẩn nhưng một khi biểu mô bị tổn thương nó sẽ rất dễ dàng bị nhiễm khuẩn.
Ngoài ra còn có tổn thương màng não và não. Sự đáp ứng đối với kháng sinh rất tốt những áp xe khi hình thành cần được tiến hành phẫu thuật dẫn lưu.
Biến chứng quan trọng nhất là giác mạc bị bộc lộ và thị thần kinh bị chèn ép, cả hai đều có thể dẫn đến giảm sút thị lực trầm trọng.
Chấn thương là nguyên nhân chính mắc phải của dây IV, đặc biệt khi ở hai mắt những khối u trong não và những nguyên nhân giống như trong liệt dây III cũng cần được chú ý.
Viêm thị thần kinh gây giảm thị lực, nhiều khi có điểm mù trung tâm, mất cảm nhận màu sắc và tổn thương đồng tử tương đối do thần kinh quy tâm.
Trong tất cả cảc hình thái của viêm thị thần kinh, teo gai thị sẽ xuất hiện sau đó, nếu có sự phá hủy của sợi thần kinh với số lượng đủ.