Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

2016-06-07 02:53 PM

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Nổi mụn khu trú kèm theo ngứa.

Các thương tổn giống đinh nhọt có chứa các con chân đốt còn sống.

Các mảng ban đỏ mềm và di chuyển (ấu trùng di trú).

Mày đay toàn thân hoặc hồng ban đa dạng ở một số bệnh nhân.

Nhận định chung

Một số động vật chân đốt (ví dụ hầu hết các muỗi gây hại và ruồi đốt) đều dễ dàng bị phát hiện khi chúng đốt. Rất nhiều bọn khác thì không như vậy, ví dụ như chúng quá nhỏ, vì không có phản ứng tức thời, hoặc là chúng đốt khi người ta đang ngủ. Phản ứng có thể xuất hiện sáu nhiều giờ, rất nhiều trong số chúng là dị ứng. Đa số bệnh nhân có xu hướng gặp bác sĩ điều trị khi tổn thướng đã nhiều và ngứa nặng. Rất nhiều người chỉ có phản ứng dữ dội với lần tiếp xúc đầu tiên với một con chân đốt do đó với các tổn thương ngứa biểu hiện trên đường di chuyển tới khu mới. Chấy rận trên cơ thể, bọ chét, rệp, và các loại muỗi địa phương đều cần phải xem xét. Người ta thường nhận định một cách sai lầm rằng nhện là nguyên nhân chính của các vết cắn, nhện rất ít khi tấn công người dù là nhện nâu (Loxosceles laeta, Loxosceles reclusa) có thể gây các phản ứng hoại tử nghiêm trọng và chết do tan huyết, và nhện quả phụ đen (Latrodectus mactans) có thể gây ra các triệu chứng toàn thân nghiêm trọng và chết. Ngoài các vết cắn của chân đốt các tổn thương thông thường nhất là do nọc (côn trùng thuộc bộ cánh màng Hymenoptera, ong bắp cày, ong, kiến, bọ cạp) hoặc do cắn (động vật nhiều chân), các tổn thướng giống đinh nhọt do ruồi, ấu trùng của côn trùng hai cánh hoặc bọ chét cát trong da và sự phát ban thẳng dần do ấu trùng di chuyển.

Lâm sàng

Có thể khó chẩn đoán khi bệnh nhân không để ý lần bị tấn công đầu tiên mà chỉ để ý khi có phản ứng muộn. Các vết cắn đặc trưng thường theo nhóm và có xu hướng nằm ở các phần không che đậy của cơ thể (ví dụ ruồi nhuế, muỗi mắt) hoặc ở quanh eo lưng hay ở phần uốn của cơ thể (ví dụ các con bét ve nhỏ hoặc côn trùng trong chăn gốì hoặc trong quần áo). Phản ứng thường xuất hiện muộn sau 1 - 24 tiếng hoặc lâu hơn. Hầu như luôn luôn có ngứa và có lẽ là ngứa không thể chịu nổi một khi bệnh nhân bắt đầu gãi. Nhiễm khuẩn thứ phát có thể xuất hiện do gãi. Thường là chứng mày đay nốt phỏng. Các mụn sẩn có thể trở thành bọng nước. Để tạo điều kiện cho chẩn đoán nên tìm hiểu khả năng tiếp xúc với côn trùng chân đốt bằng hỏi kỹ về nghề nghiệp và các hoạt động gần nhất của bệnh nhân.

Sau đây là các côn trùng chân đốt chính:

Rệp: Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp. Người ta cho rằng Cimex lectularius (rệp) có thể có vai trò trong việc truyền viêm gan B. Một loại rệp cùng họ (sống nhọn) được thông báo có xu hướng tăng cường đốt người.

Bọ chét: Bọ chét là các ngoại ký sinh trùng hút máu, sống trên chó, mèo, người và các loài khác nữa. Nước bọt của nó gây ra mày đay mụn sẩn đối với những người nhạy cảm. Ctenocephalides felis và Ctenocephalides canis là các loại thông thường nhất tìm thấy ở mèo và chó, và cả hai loài này đều tấn công người. Bọ chét ở người, Pulex irritans, ít khi được các bác sĩ thú y công nhận là gây bệnh ở động vật nuôi.

Để phá vỡ chu trình sống của bọ chét cần phải xử lý nhà ở, vật nuôi và môi trường bên ngoài dùng các chất diệt côn trùng nhanh, các chất diệt côn trùng còn lại và một chất điều hoà sinh trưởng. Chim và cá đặc biệt nhạy cảm và phải bảo vệ chúng khi khử trùng.

Con bét: Thường bắt được khi chạm vào các cây mọc thấp. Âu trùng của bét có thể tấn công rất nhiều người, ở châu Phi và Ấn Độ, chúng bị nhầm lẫn với Trombiculidae (chigger). Chứng liệt lên đôi khi có thể truy ra nguyên nhân từ vết cắn của con bét và lấy đi con bét có thể làm mất triệu chứng. Con bét có thể truyền bệnh sốt richettsia vùng núi Rocky, bệnh Lyme, sốt hồi quy.

Con chigger hay rệp đỏ: Là ấu trùng của con bét Trombiculid. Một vài loài hạn chế ở một số nước đặc biệt và thường giới hạn trong những môi trường sống địa phương (ví dụ mảnh quả mọng, bờ rừng, bãi cỏ, đồi cây, bụi nhỏ ở ao, trang trại gia cầm), chúng tấn công người, thường ở xung quanh thắt lưng, trên cá chân, gây ra ngứa tăng dần tới sẩn đỏ nhiều giờ. Đôi khi có thể trông thấy rệp đỏ ở tâm của nốt sần chưa bị gãi. Rệp đỏ là nguyên nhân phổ biến nhất gây các tổn thương do động vật chân đốt.

Bét chim: Lớn hơn rệp đỏ, bét chim nhiễm vào chuồng bồ câu hay tổ bồ câu dưới mái hiên. Con bét tăng nhanh số lượng ở bất kỳ chỗ nào trên cơ thể, mặc dù những người nuôi gia cầm thường bị tấn công ở bàn tay và cẳng tay. Máy điều hoà nhiệt độ có thể hút phải bét chim và làm nhiễm vào các cư dân sống trong phòng. Bét ở động vật gậm nhấm từ chuột có thể gây ra các tác dụng tương tự. Chẩn đoán bét chim, bét gậm nhấm hoặc bét thảm có thể bị bỏ qua và bệnh nhân lại được điều trị bệnh khác.

Con bét ở các vật lưu kho: Các con này có màu trắng và hầu như không nhìn thấy được và chúng nhiễm vào các vật như cùi dừa khô, vỏ quả vanilla, mía, rơm, hạt bông, ngũ cốc. Những người làm việc với những vật này có thể bị tấn công, đặc biệt ở tay và cẳng tay và đôi khi ở chân. Chăn gốì bị nhiễm đôi khi có thể gây ra viêm da toàn thân.

Sâu buớm có lông gây mày đay: Các sợi lông bị thổi đi từ kén hoặc từ các con bướm gây ra các đợt bùng nổ tái phát nghiêm trọng và thường là theo mùa như ở một số bang phía nam của nước Mỹ.

Bệnh da do bọ chét đào hang: Được biết là con Tunga penetrans gây ra và tìm thấy ở châu Phi, Tây Ân và Nam Mỹ. Con cái đào hang dưới da, hút máu, làm sưng lên tới 0,5cm rồi sau đó đẻ trứng. Nó có thể dẫn đến loét, viêm mạch bạch huyết, hoại thư, nhiễm khuẩn máu, trong một số trường họp nguy hiểm gây tử vong. Phun thuốc ethyl chlorid sẽ giết chết côn trùng và có thể khử côn trùng bằng thuốc diệt côn trùng lên đất.

Chẩn đoán phân biệt

Động vật chân đốt cần phải được xem xét khi chẩn đoán phân biệt các tổn thương ở da có bất kỳ chứng nào như trên.

Phòng tránh

Tốt nhất là tránh các vùng bị nhiễm, giữ vệ sinh cá nhân, định kỳ khử trùng quần áo, chăn, gối, ga giường và đồ gỗ. Chấy rận, rệp, ve, bét đều có thể bị tiêu diệt bằng bôi lindan (Gammexane, Kwell, Scabene) vào đầu và quần áo. (Không cần phải vứt bỏ quần áo). Benzyl benzoat và dimethylphthalat là các thuốc diệt ve bét rất hiệu quả; quần áo phải được thấm, phun hoặc nhúng trong nhũ tương xà phòng.

Điểu trị

Cần phải lấy ra các động vật chân đốt còn sống một cách cẩn thận bằng nhíp sau khi dùng rượu và bảo quản rượu để định loại. Ở vùng có dịch bệnh sốt do richettsia vùng núi Rocky đặc hữu, không nên bắt bét bằng tay vì có thể bị nhiễm bệnh. Kem hoặc sữa corticosteroid rất hữu ích. Có thể dùng kem hay sữa crotamiton; đó là một chất diệt bét cũng như là chất chống ngứa. Sữa calamin hoặc quần áo ẩm mát luôn luôn thích hợp. Có thể dùng kem, sữa hoặc bột kháng sinh nếu nghi ngờ có nhiễm khuẩn thứ phát.

Các tổn thương khu trú kéo dài có thể điều trị bằng corticosteroid dùng trong tổn thương. Kem có chứa chất gây teo cục bộ không có hiệu quả lắm và có thể gây nhạy cảm. Nọc của rất nhiều động vật chân đốt có thể làm giảm độc bằng bột papain trộn với nước, hoặc nhôm clorua hexahydrat (Xerac AC).

Nước chiết từ túi nọc của ong, côn trùng thuộc bộ cánh màng Hymenoptera, ong bắp cày hiện nay đã có thể dùng cho liệu pháp miễn dịch đối với các bệnh nhân quắ mẫn những chúng rất đắt. Tuy nhiên cần phải điều trị vì hàng năm ở Mỹ có tới 50 - 100 người chết vì những bệnh này. Xấp xỉ 5% số bệnh nhân không có phản ứng.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Loét da do tỳ đè

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Hồng ban nút

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Ngứa: chẩn đoán và điều trị

Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Ung thư tế bào đáy

Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Chai chân: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

Một số bệnh da có bọng nước

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Hồng ban ly tâm mãn tính

Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.

Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt

Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Bệnh dày sừng do ánh nắng

Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.

Nấm thân hoặc nấm hình vòng

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.

Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính

Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ

Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.