Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

2016-06-18 12:06 AM

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Đau dọc theo các bó thần kinh và tiếp theo là xuất hiện từng nhóm mụn nước rất đau.

Thương tổn chỉ ở một bên của cơ thể, một vài thương tổn có thể xuất hiện ở ngoài vùng da bị bệnh.

Thương tổn thường khu trứ ở vùng mặt và thân mình.

Có viêm hạch vùng lân cận (không bắt buộc).

Chẩn đoán tế bào Tzanck dương tính, đặc biệt ở những thương tổn mới.

Đánh giá chung

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần. Ở những bệnh nhân có thương tổn về hệ miễn dịch, thương tổn có thể lan rộng và đe doạ tính mạng bệnh nhân. Đối với những người có nguy cơ nhiễm HIV thì tổn thương zona là một dấu hiệu báo trước có suy giảm về miễn dịch tế bào.

Lâm sàng

Đau thường có trước thương tổn bọng nước khoảng 48 giờ hoặc hơn và có thể tồn tại và tăng lên sau khi thương tổn đã xẹp. Thương tổn cơ bản là những nhóm mụn nưốc sâu, căng, khu trú một bên của cơ thể, dọc theo các đường dây thần kinh ở thân mình. Vị trí thường hay gặp nhất là thân mình và ở vùng mặt. Hạch ngoại biên lân cận có thể sưng và mềm.

Zona da không hàm ý biểu hiện của một ung thư nội tạng, hay một bệnh toàn thể, tuy nhiên, đưa ra sự nghi ngờ có kết hợp với những rối loạn suy giảm miễn dịch như AIDS hay bệnh Hodgkin.

Chẩn đoán phân biệt

Vì viêm da do độc tố của cây sồi và cây dương thường xuyên có thể gây thương tổn thành dải ở một bên cơ thể khi chạm vào cây, vì vậy cần phải chẩn đoán phân biệt với zona. Dải mụn nước thường điển hình hơn đối với viêm da tiếp xúc, còn nhóm mụn nước điển hình đối với nhiễm virus. Chúng ta cũng phải chẩn đoán phan biệt zona với các thương tổn tương tự của herpes simplex, nhưng nó kém đau hơn. Lý do chính để phân biệt giữa herpes simplex với zona là liều acyclovir được dùng trong điều trị và cớ hội tái phát sau đó. Tiền triệu đau trong zona có thể làm cho các nhà lâm sàng chẩn đoán nhầm là đau nửa đầu, nhồi máu cơ tim, đau bụng cấp, phụ thuộc vào vị trí da có tổn thương.

Biến chứng

Sự tồn tại của đau dây thần kinh, tê bì hoặc sẹo ở vùng thương tổn sau khi các thương tổn khỏi, viêm các dây thần kinh mặt và các dây thần kinh khác, có thể có viêm não. Đau dây thần kinh sau điều trị là biến chứng hay gặp nhất sau khi có tổn thương ở vùng dây thần kinh sinh ba, ở những bệnh nhân tuổi trên 60, và ở những người có suy giảm miễn dịch. Zona mắt có thể làm cho thị lực giảm.

Điều trị

Liệu pháp toàn thân

Có thể làm thuyên giảm cơn zona ở những người suy giảm miễn dịch bằng thuốc acyclovir. Người ta đã thông báo rằng bằng cả hai phương pháp tiêm tĩnh mạch và uống liều cao acyclovir (800mg 5 lần một ngày dùng trong 7 ngày) có thể đẩy mạnh tốc độ lành bệnh và làm giảm đau cấp tính khi bắt đầu điều trị trong vòng 48 - 72 giờ đầu. Bệnh nhân nên duy trì việc giữ vệ sinh tốt, và bệnh nhân có chức năng thận giảm phải được theo dõi sát xao. Phong bế thần kinh có thể có giá trị để kiểm soát đau thần kinh. Nên khám chuyên khoa mắt khi thương tổn ở nhánh thứ nhất của sợi dây thần kihh sinh ba. Không có tài liệu rõ rằng nào về phương pháp đặc hiệu để phòng chống đau dây thần kinh sau khi điều trị khỏi, mặc dù việc dùng acyclovir và corticosteroid đã được chủ trương dùng trong quá khứ.

Globulin miễn dịch với thủy đậu - zona không có hiệu quả trong zona đã rõ nhưng nó có giá trị quan trọng ở những bệnh nhân có suy giảm miễn dịch mà trước đó không bị thủy đậu và sau đó mới được tiếp xúc với thủy đậu hoặc zona.

Mục đích củạ việc điều trị zona ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch là phòng khả năng lan tràn của virus có đe dọa cuộc sống. Cả hai phương pháp tiêm tĩnh mạch và uống đều sẽ phòng chống sự tiến triển trong cộng đồng bệnh nhân. Tuy nhiên, điều chú ý đặc biệt và sự theo dõi sát những bệnh nhân có nhiễm HIV và có số lượng tế bào lympho T thấp, hoặc có suy dinh dưỡng, hoặc khối u lympho, hoặc những bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế miễn dịch là rất cần thiết. Bệnh zona tiến triển phải dùng liệu pháp tiêm tĩnh mạch. Tác dụng phụ có thể là giảm chức năng thận do sự kết tinh, nôn và buồn nôn, đau bụng. Chúng ta có thể cho 7,5mg/kg cân nặng tiêm tĩnh mạch, 3 lần một ngày trong 7 ngày. Tuy nhiên rất nhiều bệnh nhân có thể được điều trị bằng acyclovir bằng cách uống lệ thuộc vào tình trạng miễn dịch của họ.

Liệu pháp lại chỗ

Hồ nước hoặc bột talc có thể có ích.

Đau dây thân kinh sau Zona

Thuốc bôi Capsaicin có thể có hiệu quả trong 50% trường hợp. Đau dây thần kinh mạn tính có thể phong bế vùng (hạch sao, ngoài màng cứng, thâm nhiễm tại chỗ, hoặc thần kinh ngoại biên) bằng Bupivacain hydrochlorid, có kèm hoặc không kèm corticosteroid. Amitriptylin, 25 mg uống 3 lần một ngày, và Fluphenazin, 1mg 4 lần một ngày cũng có thể được dung. Doxepin, 25 - 50mg 3 lần một ngày đã được thông báo là có ích. Ngủ gà có thể xảy ra khi dùng thuốc.

Tiên lượng

Bệnh tồn tại 2 - 3 tuần và không bao giờ tái phát. Người ta cho rằng tổng số ngày bị bệnh có thể được dự đoán trước bàng số ngày nhiều hơn ngày các mụn nước mới tiếp tục xuất hiện. Đau dây thần kinh vận động chiếm 2 - 3% và có thể dẫn tới tê liệt tạm thời. Không có nhóm tuổi nào là hoàn toàn không có khả năng bị đau dây thần kinh sau zona hàng năm hoặc lâu hơn, nhưng có nhiều khả năng bị đau nhiều hơn ở nhóm tuổi 60 - 69 (20%) và ở nhóm tuổi trên 70 (30%), và ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Zona mắt có thể dẫn tới mù. Dẫn chứng về zona tái phát rất hiếm và khi nghiên cứu, cho thấy virus herpes simplex mọc trên môi trường nuôi cấy.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Loét da do tỳ đè

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Hồng ban nút

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Ngứa: chẩn đoán và điều trị

Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Ung thư tế bào đáy

Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Chai chân: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

Một số bệnh da có bọng nước

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Hồng ban ly tâm mãn tính

Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.

Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt

Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Bệnh dày sừng do ánh nắng

Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.

Nấm thân hoặc nấm hình vòng

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.

Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính

Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ

Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.

Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.