Cây rùm nao

2015-09-04 02:50 PM

Các hạch và lông hứng được là một thứ bột mịn, màu đỏ tươi hay đỏ nâu, không mùi, không vị, đốt cháy rất mau, nổi lên mặt nước, nước có màu vàng sau đó bột chìm xuống.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Còn gọi là thô khang sài, kamala, camala, mọt.

Tên khoa học Maỉlotus philippìnensis (Lam) Muell. Arg.

Thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae.

Mô tả cây

 Cây rùm nao

Cây rùm nao

Cây rùm nao là một cãy cao từ 5 đến 15m. Cành gầy, lúc đầu có lông măng, màu gỉ sắt sau nhẵn và ngả nâu nhạt. Lá mọc so le, có cuống dài 10-12m, rộng 3-4cm hình trứng hay lưỡi mác. Phiến lá dài, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông măng, điém những hạch màu đỏ. Từ cuống tỏa ra ba gân, sát cuống có hai hạch đen. Hoa nhỏ, đơn tính khác gốc không có cánh mọc thành bông ở kẽ lá hoặc đầu cành. Quả là một nang, hình cầu, đường kính chừng lOmm, gồm 3 mảnh vỏ, mỗi mảnh mỏ ra theo đường của 2 van. Trên mặt quả có các hạch hình hạt nhỏ màu đỏ tươi hay đỏ nâu. hạt hình cầu hay hình trứng dài 5mm màu đen mờ, có mồng, nội nhữ nhiều.

Phân bố

Theo A. Pételot (1954) cây mọc hoang khắp nơi ở Viột Nam. Nhưng chúng tôi chỉ phát hiện được vào tháng 4-1962 tại các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, khi cây đang có quả. Tên địa phương là rùm nao. Sau đó dã thấy cả ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Hòa Bình và nhiều nơi khác.

Bộ phận dùng

Hạch và lông ở xung quanh quả. Thường không dùng hạch và lòng của lá và các bộ phận khác. Các nước khác dùng với tên kamala. Cách lấy hạch và lông ở quả như sau: Hái quả chín đỏ vào tháng 3-4, phơi khô. Đặt lên một cái rầy có mất nhỏ. Xoa bằng tay. các hạch và lông rụng xuống lọt qua rây. Hứng vào tấm vải.

Các hạch và lông hứng được là một thứ bột mịn, màu đỏ tươi hay đỏ nâu, không mùi, không vị, đốt cháy rất mau, nổi lên mặt nước, nước có màu vàng sau đó bột chìm xuống.

Ta có thể dùng cồn, hoặc ête, benzen, cloroíoc để lấy ra một chất màu đò nâu. Gặp chất kiém cho màu đỏ.

Thành phần hóa học

Hoạt chất chính trong hạch và lông rùm nao là một chất màu kết tinh hình phiến mỏng.

Anderson gọi chất này là rotìerin, Perkin gọi là malotoxin, Merck gọi là kamalin.

Tại các nước, người ta dùng hạch và lông cùa cây này với tên Kamala lậm thuốc chữa sán. Ưu điểm của nó là nó có tác dụng tẩy luôn, dẽ uống, không gây nôn mửa.

Liều dùng: Trẻ em ngày uống 2g bột chia làm 2 lần uống, mỗi lần cách nhau nửa giờ.

Người lớn: Ngày uống 6-12g cũng chia làm hai lần uống, mỗi lần cách nhau nửa giờ.

Tác dụng kiềm và đun nóng, rotlerin sẽ cho métylphlorogluxin. Khử ôxy bằng natri hydroxuyt và kẽm sẽ được đimetylphlorogluxin.

Tác dụng axit clohydric, rotlerin sẽ cho isorotlerin.

Ngoài rotlerin ra, rùm nao còn chứa một chất nhựa đỏ, một chất nhựa màu vàng, một chất có tinh thể màu vàng và sáp.

Công dụng và liều dùng

Nhân dân Việt Nam ít dùng vị thuốc này. Tại Cao Bằng chỉ dùng vỏ cây sắc uống chữa bệnh dày da bụng, phù.

Ngoài công dụng trong y dươc, bột này (hạch và lông) còn được nhân dân Ấn Độ dùng làm thuốc nhuộm màu vàng cam.

Chú thích:

Trong các tài liêu cũ, thường ghi cây này với tên cánh kiến và nói là dùng nhuộm răng. Chúng tôi cho rằng đây là một sự lầm lản khi điều tra. Vì vị cánh kiến dùng để nhuộm răng là một thứ nhựa do một con sâu sống trên nhiều cây tiết ra. Ta gọi là gôm lắc hay sen lac (shell lac), stich lac (stick lac).

Bài viết cùng chuyên mục

Cây mắc nưa

Mắc nưa cũng như cây mun chủ yếu được trồng để lấy gỗ, và lấy quả làm thuốc nhuộm màu đen, quả có thể dùng tươi hay khô, nhưng chủ yếu là tươi.

Cây quán chúng

Quán chúng là một vị thuốc tương đối hay dùng trong đông y, tuy nhiên nguồn gốc rất phức tạp và chưa thống nhất, trước dây căn cứ vào các tài liệu của Trung Quốc.

Cây cau

Dung dịch hạt cau có tác dụng độc đối với thần kinh của sán, làm cho tê bại các cơ trơn của sán, 20 phút sau khi thuốc vào tới một, con sán bị tê liệt.

Cây thạch lựu

Dù với liều điều trị khi dùng thuốc, bệnh nhân cần phải nằm yên trong phòng tối để tránh mọi ảnh hưởng không tốt của thuốc. Thường phối hợp với tanín.

Cây chân bầu

Nhân dân miền Nam và Campuchia thường dùng quả làm thuốc chữa giun đũa, dùng phối hợp với lá mơ tam thể Paederia tomentosa. Thái nhỏ hai thứ trộn đều thêm bột.

Hạt bí ngô

Bóc hết vỏ cứng của hạt bí ngô, để nguyên màng xanh ở trong. Người lớn dùng 100g nhân, giã nhỏ trong cối, có thể dùng 50-60ml nước để tráng sạch cối.

Cây thùn mũn

Cây mọc hoang ở các đồi thành từng bụi cao chừng 1-2m. Thân màu tía tím thỉnh thoảng có cành đỏ tươi hơn, trông như hơi mốc. Có vạch dọc rất rõ.

Cây xoan

Xoan là một cây to cao, có thể đạt tới 25-30m nhưng thòng thường chỉ thấy 10-15m là người đã khai thác, vỏ thân xù xì, nhiều chỗ lồi lõm, với nhiều vết khía dọc.

Cây bách bộ

Nghiên cứu tác dụng dược lý, người ta đã chứng minh kinh nghiệm của ông cha ta dùng bách bộ để chữa ho, chữa giun và diệt sâu bọ là đúng.

Cây keo dậu

Cây keo dậu mọc hoang và được trồng khắp nơi trong Việt Nam để làm hàng rào, làm phân xanh bóng mát. Trâu bò rất thích ăn lá cây này. Khi quả chín lấy về.

Sử quân tử

Cây sử quân mọc hoang ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và miềm Trung Việt Nam. Tại các tỉnh, nhất là thành phố, một số gia đình trồng làm cảnh vì cây xanh tốt quanh năm.

Cây dầu giun

Cây mọc dại từ đầu mùa xuân đến giữa mùa hè thì ra hoa kết quả. Đến tháng 8 tháng 9, quả chín hạt rụng xuống đắt. Rồi cây bị đất phù sa tràn ngập, thối chết.