Cây thuốc lá

2017-05-29 01:16 PM

Hoa nhiều, tập hợp thành chùy ở ngọn. Đài có lông, tràng màu trắng hay hồng hoặc tím nhạt. Quả nang có 2 ô, có đài tồn tại bọc ở ngoài, hạt bé, nhiều, màu đen.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Còn gọi là Nicotiana thnam (Campuchia), yên thảo (Trung Quốc), tabac (Pháp).

Tên khoa học Nicotiana tabacum L.

Thuộc họ Cà Solanaceae.

Mô tả cây

Cây thuốc lá

Cây thuốc lá

Cây thảo, sống hàng năm, phần gốc thân hóa gỗ ít nhiều. Thân mọc đứng, có nhiều lông, phân cành ở ngọn, các lá ở phía trên bé hơn, hình lưỡi mác. Phiến lá to có thể dài 60 - 75cm, rộng 30 - 50cm, không cuống, một mẩu lá phía dưới ôm vào thân.

Hoa nhiều, tập hợp thành chùy ở ngọn. Đài có lông, tràng màu trắng hay hồng hoặc tím nhạt. Quả nang có 2 ô, có đài tồn tại bọc ở ngoài, hạt bé, nhiều, màu đen: 1ml có thể chứa tới 6.000 hạt.

Cùng loại với cây thuốc lá, ở Việt Nam còn trồng cây thuốc lào-Nicotiana rustica L. thân thấp hơn, lá to và dày hơn.

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây thuốc lá vốn nguồn gốc ở châu Mỹ, nhưng được đưa về trồng ở nhiều nước trên thế giới. Người ta ước tính mỗi năm toàn thế giới sản xuất khoảng 4 triệu tấn thuốc lá khô, trong đó 3/4 sản xuất ở châu Mỹ và các nước châu Á. Những nước sản xuất nhiều thuốc lá trên thế giới có Mỹ (gần một triệu tấn/năm), Trung quốc, Ấn Độ, Braxin, Nhật Bản. Ở Việt Nam việc trồng thuốc lá chỉ mới được phát triển sau Cách mạng tháng Tám, vì trước đây hồi thuộc Pháp, việc trồng thuốc lá, thuốc lào bị hạn chế, phải xin phép. Thuốc lào thường chỉ trồng tập trung ở một số tỉnh như Hải Dương, Hưng Yên (Vĩnh Bảo), Hải Phòng (Tiên Lãng) ... Những năm gần đây thuốc lá đươc trồng ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Tây (Ba Vì), Gia Lai Công Tum, Đắc Lắc ...

Trồng thuốc lá bằng hạt. Trước hết phải gieo hạt. Khi cây con cao chừng 10 -15cm mới đánh đi trồng ở nơi cố định. Khoảng cách giữa mỗi cây chừng 65cm (tỉ lệ nicotin càng cao nếu các cây cách xa nhau vừa đủ). Thời vụ gieo trồng thay đổi theo giống và điều kiện khí hậu từng vùng. Ở Vĩnh Phúc người ta trồng vào tháng 12 (cho năng suất cao nhất), bắt đầu thu lá từ tháng 4, tháng 5: Thu hái lá từ phía dưới lên, trung bình mỗi hecta cho khoảng 1 tấn lá khô/năm. Trong thu hoạch thuốc lá, công việc phơi sấy đóng vai trò quyết định chất lượng của thuốc lá. Có thể phơi nắng nhưng để chủ động người ta thường sấy. Do đó cùng với việc trồng thuốc lá, nhất thiết phải thiết kế lò sấy,

Mặc dầu thuốc lá là một chất độc, nhưng thế giới hiện nay vẫn trồng thuốc lá chủ yếu để hút, một số rất ít dùng làm thuốc trừ sâu bệnh cho cây trồng, một số ít nữa dùng làm thuốc chữa bệnh.

Thành phần hóa học

Thuốc lá dã phơi hay sấy khô còn chứa tới 20% nước, hàm lượng chất vô cơ cũng rất cao: 15 đến 20% trong đó chủ yếu là kali, canxi, photphát, nitrat.

Trong thuốc lá còn xanh, hàm lượng gluxit khá cao: Tới 40% bao gồm chủ yếu là tinh bột (8 - 12%), đường tan được (2 - 4%) rồi đến pectin, xenluloza. Trong quá trình khô, lá bắt đầu ngả vàng, hàm lượng tinh bột và đường giảm xuống rất nhanh.

Các chất protein và lipit thường chỉ chiếm 12 và 5% trọng lượng khô.

Hàm lượng các axit hữu cơ cũng rất cao: 15 - 20% trong đó chủ yếu là axit malic, kèm theo axit xitric, các axit-phenol như axit cafeic, clorogenic (2 - 4% trọng lượng khô), axit quinic, và một axit đặc biệt: axit nicotinìc (3 pyridin cacbonic).

Trong thuốc lá còn có các hợp chất đa phenol. Ngoài axit clorogenic, còn có các flavonozit: rutozit chiếm 1%, izoquexitrozit, quexetol, vết cumarin, scopoletol. Các hợp chất đa phenol đóng vai trò quan trọng trong màu sắc và hương vị thuốc lá.

Thuốc lá còn chứa một ít tinh dầu (linalola, bocneola), các hợp chất kiềm bay hơi (pyridin, N-metyl pyrrolidin), nhiều men (gluxidaza, oxydaza, catalaza).

Người ta cho hoạt chất chủ yếu cúa thuốc lá, thuốc lào là chất nicotin. Hàm lượng nicotin thay đổi từ 2 đến 10%, thuốc lào có thể chứa tới 16% nicotin.

Nicotin là một ancaloít được chiết ở thuốc lá từ nảm 1828. Đây là một chất kiềm không chứa oxy. Nicotin là một chất lỏng sánh, mùi hắc, vị nóng, cay. Khi tinh khiết, không có màu, nhưng ra ánh sáng và không khí ngả màu nâu. Nicotin tan trong nước, rất tan trong các dung môi hữu cơ. Nicotin là một ancaloit bay hơi mạnh, khi tiếp xúc với axìt clohydric cho khói trắng.

Bên cạnh nicotin người ta còn thấy nomicotin (có nhiều trong một số loài thuốc lá trồng), anabasin (vì lần đầu tiên được chiết từ cây thuộc chi Anabasis) họ Rau muối (Chenopodiaceae). Anabasin là đồng phàn của nicotin. Ngoài ra người ta còn thấy một ít chất như nicotelin, nicotyrin, myosmin ...

Thành phần thuốc lá thay đổi nhiều trong quá trình phơi sấy và chế biến. Thường bao giờ trong thuốc lá phơi sấy hay chế biến, người ta nhận thấy:

Tinh bột và đường hầu nhu giảm hoàn toàn.

Axit malic giảm.

Các protit thoái hóa và xuất hiện các dạng họp chất tan như axit amin, asparagin.

Hàm lượng nicotìn có thể bị giảm, ngược lại hàm lượng axit nicotinic có thể tăng lên, hàm lượng axit clorogenic cũng giảm xuống.

Các hợp chất đa phenol bị ôxy hóa làm cho thuốc lá chuyển màu nâu.

Xuất hiện các axit béo tự do, các ancol và este thơm.

Tác dụng dược lý

Thuốc lá là một cây độc, nhất là những lá già, có hàm lượng nicotin cao.

Người ta đã thấy người lớn đã chết do đã dùng 15 đến 20 gam thuốc lá dưới dạng hãm để thụt. Trẻ con chỉ cần vài gam cũng dủ chết.

Một số con vật nuôi trong nhà cũng rất nhậy cảm với nicotin nhưng người ta thấy một số con vật nhai lại có thể ăn những cây thuốc lá non mà không bị ngộ độc.

Nicotin là một chất độc mạnh hơn: Liều chết cho một người lớn là 0,06gam.

Gần đây, những công trình nghiên cứu cho biết thuốc lá đóng vai trò làm tăng những bệnh tim mạch và một số dạng ung thư. Thống kê cho biết số người hút thuốc lá bị chết do ung thư phổi cao hơn là số người không hút. Nhựa của khói thuốc lá bôi lên da chuột có thể gây ung thư da. Cho nên gần đây người ta đang tìm cách hạn chế sự độc hại của thuốc lá bằng vận động không hút thuốc lá, hoặc hút thuốc lá đã loại bớt nicotin, hay hút thuốc lá có những đầu lọc bớt nicotin.

Công dụng và liều dùng

Mặc dầu biết hút thuốc lá là một chất độc, nhưng việc tiêu thụ thuốc lá trên thế giới ngày càng tăng. Người ta đã ước tính bình quân một đầu người, một năm ở Thụy Sỹ dùng tới 5kg thuốc lá, tại Mỹ mỗi người mỗi năm tiêu thụ 4,8kg, tại Pháp 2,3kg.

Hiện nay thuốc lá, thuốc lào ít dùng làm thuốc đối với người. Trong nhân dân, người ta dùng thuốc lào, thuốc lá để đắp vào những nơi đứt tay chân, chảy máu để cầm máu. Còn dùng chữa rắn rết côn trùng cắn.

Thuốc lá hay dược dùng chữa bệnh cho gia súc và phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng (bảo vệ thực vật).

Đối với cây trồng người ta dùng bột vụn thuốc lá (dư phẩm của công nghiệp thuốc lá), dịch chiết thuốc lá hay dư phẩm công nghiệp thuốc lá có chứa mỗi lít từ 10 đến 20g sunfat nicotin. Khi dùng người ta pha loãng thành dung dịch chứa 1% nicotin rồi phun lên cây có sâu bọ. Nicotin không độc với cây trồng, nhưng sâu bọ hoặc tiếp xúc, hoặc hút nước có nicotin hoặc hít thở hơi thuốc sẽ bị ngộ độc. Tuy nhiên vì đây là chất độc, cho nên việc sử dụng phải theo đúng những quy định để tránh ngộ độc cho người sử dụng.

Đối với súc vật người ta dùng thuốc lá thuốc lào pha nước để chữa ghẻ, chấy rận, bọ chó. Dùng dung dịch chứa 1% nicotin. Tránh bôi lên những nơi da bị sây sát để tránh ngộ độc.

Đôi khi người ta dùng trị giun sán cua bò, dê với liều 5 - 6ml đối với bò, 1 - 2ml đối với dê, cao thuốc lá có chứa 40% nicotin.

Bài viết cùng chuyên mục

Cây sở

Cây dầu sở được trồng nhiều nhất ở tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ rồi đến các tỉnh khác có ít hơn như Hòa Bính, Hà Tây, vùng huyện Nho Quan thuộc Ninh Bình.

Cây mắc kẹn

Cây nhỏ cao 3 - 5cm. Lá kép chân vịt, có cuống chung dài tới 25cm, lá chét hình mác thuôn, dài 20cm, rộng 6cm, dai, nhẵn, mép có răng cưa nhỏ. Hoa trắng.

Cây lim

Lim là một cây mọc phổ biến ở Việt Nam nhất là tại những khu rừng miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Còn thấy ở Lào, miền nam Trung Quốc.

Cây trẩu

Trẩu là một cây to, cao có thể tới 8m hay nhiều hơn, thân nhẵn. Lá đa dạng, khi thì có thùy sâu, khi xẻ nông, khi thì nguyên và hình tim, mặt trên bóng, màu sẫm.

Cây ngọt nghẹo

Cây ngọt nghẹo là một loại cây sống lâu do thân rễ gồm một chuỗi củ mẫm, hình cung, từ những nơi nhô lên mọc các thân cao tới 3 - 6m, nhẵn mềm, phía đỉnh có cạnh.

Cây tỏi độc

Lá cây tỏi độc to, dài, đầu lá hẹp nhọn, khi quả chín thì lá héo đi và trên mặt đất hầu như không còn dấu vết gì của cây nữa cho đến khi mùa thu tới lại thấy hoa từ dưới đất.

Cúc trừ sâu

Cúc trừ sâu là một cây ưa khô, chịu hạn được một thời gian dài có thể chịu mùa đông rất lạnh, nó ưa bóng vừa phái và có thể trồng xen với một số cây to nhưng nó rất sợ ẩm ướt.

Cây cổ giải

Cổ giải là một loại cây sống ở nhừng núi đá vôi tại các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang. Có thấy mọc cả ở núi đất.

Cây hương lâu

Cây mọc hoang dại trên các đồi hoang khô nơi nhiều nắng, trơ đất đá, xen lẫn cây bụi thấp. Được trồng để khai thác tại nhiều nước như Ấn Độ, Inđônêxya.

Hương bài

Chưa thấy nhân dân ta dùng cây hương bài làm thuốc. Chỉ mới thấy dùng rẽ phơi khô trộn với nhiều vị thơm khác như hồi, quế chi và bã mía để làm hương thắp.

Cây hồi núi

Hiện nay không thấy nhân dân ta sử dụng cây hồi núi, thường chỉ do dùng nhầm gây ra những vụ ngộ độc vì quả có chất độc. Nêu lên ở đây để cần chú ý tránh nhầm lẫn.

Cây thàn mát

Trong nhân dân chỉ mới thấy dùng hạt thân mát để đuốc cá. Tán nhỏ, trộn với tro bếp, rắc vào dòng nước suối đã ngân lại, cá sẽ chết, nổi lên chỉ việc vớt về.

Cây sui

Cây sui là một loại cây lớn, có thể cao tới 30m, có gốc rất lớn. Lá nhị lộ, có cuống dài 8-10m, phiến lá dài chừng 6cm, rộng khoảng 5,5cm. Cả hai mặt lá đều hơi nháp.

Cây lá ngón

Trong cây lá ngón Bắc Mỹ, thành phần chủ yếu là chất gelmixin có độc tính rất mạnh, với liều thấp trên động vật có vú, trước khi thấy hiện tượng ức chế hô hấp.

Cây hột mát

Hiện cây này không được dùng làm thuốc. Nhân dân chỉ dùng hạt tán nhỏ, cho xuống nước để duốc cá. Có thể nghiên cứu để làm thuóc trừ sâu bọ hại hoa màu.

Cây củ đậu

Cây củ đậu được trồng khắp nơi ở Việt Nam vùng đồng bằng cũng như miền núi để lấy rẽ củ ăn, hạt dùng làm thuốc, nhưng ít dùng vì có độc. Mùa thu hoạch hạt tháng 11, 12.

Cây chẹo

Chẹo là một cây nhỡ cao chừng 8m cành, và cuống lá thường mền yếu, lá kép lông chim nhẵn thường gồm 2 đến 5 đôi lá chét hình trứng dài, dai, có cuống.