Bài giảng bệnh tim và thai nghén

2012-11-01 01:08 PM

Sau đẻ lưu lượng tim trở lại bình thường trong thời kỳ hậu sản. Lưu lượng tim tăng do nhu cầu tiêu thụ oxy cho mẹ (vú, tử cung), cho thai và phần phụ của thai. Khối lượng máu tăng, nên lưu lượng máu phải tăng theo.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Khi có thai

Hệ tiểu tuần hoàn

Khi có thai người ta thấy:

X quang phổi: Hai rốn phổi đậm là biểu hiện có ứ đọng ở tiểu tuần hoàn. Thông khí phổi (thở nhanh) tăng, pCO2 ở máu mẹ giảm từ 40 xuống 32 mmHg.

Thông khí tối đa (thở nông) giảm, dẫn tới giảm thích nghi với gắng sức. Tử cung có thai to dần đẩy cơ hoành lên cao gây chèn ép lên phổi, diện thông khí giảm.

Giảm khả năng trao đổi khí oxy, dần dẫn đến nhiễm toan chuyển hoá máu mẹ.

Hệ tuần hoàn và tim mạch

(1) Tăng diện tích tuần hoàn: Do thai, bánh rau, tử cung, vú của thai phụ phát triển theo tuổi thai làm tăng diện tích tưới máu của tim và tuần hoàn.

(2) Tăng khối lượng máu tuần hoàn lên 40%. Tăng nhanh từ tháng thứ 4,5,6 và duy trì ở mức cao đó cho đến sau đẻ, rồi giảm dần trở lại như mức trước khi có thai, trong suốt thời kỳ hậu sản. Sự tăng này chủ yếu là huyết tương, chỉ tăng 20% hồng cầu, hematocrit giảm từ 30 - 25% độ quánh của máu giảm, hậu quả là ứ nước sinh lý, giữ nước trong cơ thể thai phụ.

(3) Tăng nhịp tim nhanh, hơn 10 lần/phút so với thời kỳ không có  thai.

(4) Lưu lượng tim: bình thường trước khi có thai: 4,5 lần/phút. Khi có thai lưu lượng tim tăng lên:

Thai tháng thứ 3 - 4 tăng lên 5,5 lần/phút.

Thai tháng thứ 5 - 7 tăng lên 6,0 lần/phút.

Thai tháng thứ 8 - 9 tăng lên 5,5 lần/phút.

Sau đẻ lưu lượng tim trở lại bình thường trong thời kỳ hậu sản. Lưu lượng tim tăng do nhu cầu tiêu thụ oxy cho mẹ (vú, tử cung), cho thai và phần phụ của thai. Khối lượng máu tăng, nên lưu lượng máu phải tăng theo.

(5) Huyết áp động mạch không tăng, nhưng áp lực tĩnh mạch tăng nên phù hai chân.

(6) Tư thế tim: tìm từ đứng chuyển thành nằm ngang, do cơ hoành bị tử cung đẩy lên cao. Các mạch máu có đường kính lớn từ tim ra bị gập nhẹ (hẹp nhẹ), buộc hệ tim mạch phải làm việc trong điều kiện khó khăn hơn. Lực hoạt động của tim lớn hơn để bơm máu vào tuần hoàn đi nuôi cơ thể.

(7) Vận tốc tuần hoàn tăng: bình thường vận tốc tuần hoàn 14 giây.

Trong 3 tháng đầu thai kỳ, vận tốc tuần hoàn 12,4 giây.

Trong 3 tháng cuối thai kỳ, vận tốc tuần hoàn 10,2 giây

Tốc độ tuần hoàn tăng, do hình thành dần những (shunt) nối thông giữa động mạch và tĩnh mạch ở hồ huyết, ở tử cung, và trở lực ngoại biên hạ nên huyết áp động mạch không thay đổi mấy.

Trong khi có thai, lưu lượng máu tăng, nên công cơ học của tim tăng 50%. Các biến động tim sản trên chỉ có thể thích nghi dễ dàng ở thai phụ khoẻ và bình thường. Vì họ có khả năng dự trữ hoạt động rất lớn, nên họ thích nghi với thai  nghén. Còn thai phụ mắc bệnh tim, tim bệnh không thể đương đầu với những biến đổi trên nên thai nghén là một gánh nặng đối với tim bị bệnh. Nên tim bệnh dễ bị suy trong quá trình phát triển của thai nghén dẫn đến suy tim, ứ huyết ở tim, ở phổi, ở gan và có thể suy tim, phù phổi cấp và loạn nhịp tim.

Khi chuyển dạ

Tần số co bóp cơ tử cung tăng dần gây tăng nhu cầu oxy tạo năng lượng để cơ tử cung co bóp trong chuyển dạ. Lâm sàng, tần số trên 110 lần/phút có thể là dấu hiệu báo trước của suy tim ( nhất là trong hẹp van hai lá).

Huyết áp trong cơn co tử cung tăng, do máu từ cơ tử cung dồn vào tuần hoàn mẹ ước độ 200 ml khi hết cơn cơ tử cung máu lại trở về tử cung ; tạo nên tình trạng rối loạn huyết động (4). Kết hợp tần số tim tăng, lưu lượng máu tim tăng nên công cơ học của tim tăng cao hơn. Ở một bệnh tim, sự tăng công cơ học đột ngột liên tục này làm tim bệnh không đáp ứng nổi, dẫn đến suy tim, suy tim cấp hoặc phù phổi, phù phổi cấp.

Trong bệnh hẹp van hai lá (ước độ 30% các bệnh van tim), hẹp càng khít càng cản trở máu từ nhĩ xuống thất càng làm tăng áp lực nhĩ trái và áp lực tiểu tuần hoàn  dẫn đến ứ máu phổi, phù phổi, phù phổi cấp. Đã ứ máu ở phổi, ở nhĩ và thất phải, sẽ ứ máu gan làm cho gan to.

Trong khi đó máu từ thất trái được bơm ra ít, gây thiếu máu tuần hoàn. Nhu cầu oxy mô ở giai đoạn này rất cao, đòi hỏi thất trái phải làm việc nhiều hơn để cung cấp oxy nên dẫn đến suy  tim cấp toàn bộ.

Thời kỳ sổ rau

Sau sổ thai, tuần hoàn tử cung rau ngừng hoạt động đột ngột.

Mất máu nhiều khi bong rau, thiếu hồng cầu để vận chuyển oxy tới mô.

Tử cung co thành khối an toàn, dồn máu từ tử cung vào tuần hoàn làm tăng khối lượng máu lưu thông, tạo gánh nặng tương đối đột ngột cho tim.

Áp lực ổ bụng giảm đột ngột do tử cung co nhỏ lại, máu từ hai chân dồn về ổ bụng nhan, dồn lên nhĩ phải, thất phải và lên phổi. Lượng máu lưu thông qua tim tăng chừng 20% trong một thời gian ngắn. Sự thay đổi đột ngột này chỉ ở những người khoẻ mạnh mới thích nghi được dễ dàng. Còn người bị bệnh tim nhất là hẹp van hai lá thì dễ ngừng tim, suy tim cấp hay phù phổi cấp. Đây là thời kỳ nguy hiểm nhất trong biến cố tim sản.

Khi rau bong mạch máu vùng rau bám hở xuất hiện hiện tượng tắc mạch sinh lý; các yếu tố đông máu tuần hoàn mẹ hoạt động mạnh dễ dẫn đến tai biến huyết khối. Mặc khác, các nút cầm máu ở mạch máu vùng rau bám lại là nơi dễ nhiễm khuẩn. Đây là tiền đề của tai biến tim sản trong thời gian hậu sản.

Thời kỳ hậu sản

Thể tích máu tuần hoàn do tử cung co hồi dồn vào tuần hoàn chung vẫn còn và khối lượng máu này sẽ giảm dần trong thời kỳ hậu sản, nhưing nhu cầu oxy vẫn còn cao do hai vú phát triển để tổng hợp và tạo sữa. Thể tích nước gian bào trong cơ thể mẹ cũng sẽ giảm dần theo giảm Estrogen. Sau đẻ, tuy gánh nặng thai sản lên tim đã qua nhưng hậu quả của gánh nặng đó đã làm  dự trữ  năng lực cuả tim bị kiệt quệ. Rối loạn huyết động trong cuộc đẻ còn tồn tại nên vẫn còn khả năng gây suy tim, phù phổi ở những người mẹ đang nghỉ ngơi chưa nói đến những bà mẹ phải lao động vất vả nuôi con bằng sữa mẹ.

Ảnh hưởng của bệnh tim lên thai nghén

Nói chung, những người mẹ mắc bệnh tim, dù bệnh tim mắc phải hay tiên thiên loại không xanh tím hay xanh tím đều thiếu oxy và thiếu dinh dưỡng mô.

Nhu cầu tăng trưởng và phát triển của thai cần tổng hợp nhiều protein. Muốn tổng hợp được protein cần nguyên liệu protein và oxy để tổng hợp. Theo Whitemore (Mỹ 1983) có khoảng 30% con của các thai phụ bị bệnh tim bẩm sinh loại xanh tím bị dị dạng. Theo Metcalfe (Mỹ 1985) những trẻ bị dị dạng này một phần là do mẹ bị bệnh tim thiếu oxy, một phần có  thể do di truyền.

Tuỳ theo mức độ và thời điểm mẹ bị thiếu oxy do bệnh tim mà có thể có những ảnh hưởng khác nhau lên thai nghén, thường gặp như: thai nghén kém phát triển từ tử cung hay suy dinh dưỡng trong tử cung, thai suy mạn, nhẹ cân so với tuổi thai. Tỷ lệ doạ sẩy thai và sẩy thai, doạ đẻ non và đẻ non, thai chết lưu và chết trong chuyển dạ cũng cao. Trong chuyển dạ thường sổ nhanh, vì thai nhỏ. Tuy vậy, những thai phụ bị bệnh tim còn có khả năng bù tốt, thai nghén vẫn có thể phát triển bình thường và đẻ con ra vẫn bình thường.

Yếu tố thuận lợi

Mức độ nặng nhẹ của bệnh tim, loại bệnh tim. Bệnh hẹp van hai lá là nặng nhất và hẹp càng khít càng nặng. Tổn thương càng nhiều van càng nặng.

Tuổi của sản phụ: Suy tim 13,2% ở tuổi dưới 25 ; 41,5% ở tuổi từ 25 – 29; 21,6% ở tuổi từ 30 – 34 và 23,6% ở tuổi từ 35 trở lên, vì bệnh tim thường mắc ngay từ bé.

Số lần đẻ: Con so ít biến cố hơn con rạ, càng đẻ nhiều lần nguy cơ càng cao

Tuổi thai: Tuổi thai càng lớn càng dễ xảy ra biến cố, có thể xảy ra trong ba tháng đầu, tổng kết 14 tử vong tim sản (3) thì 6 tháng: 2 ; 7 tháng: 3 ; 8 tháng: 2 và 9 tháng:  7 trường hợp tử vong.

Những yếu tố khác: sợ hãi tăng xúc cảm, cũng dễ dẫn đến tử vong.

Suy tim

Xếp loại suy tim theo chức năng thai nghén:

Dựa theo tiêu chuẩn của hội tim mạch New York (New York Heart Association = NYHA) là:

Loại 1: Bệnh nhân bị tim, nhưng không bị giới hạn hoạt động thể lực. Hoạt động thể lực bình thường không gây ra mệt mỏi hồi hộp khó thở hay đau ngực. Về lâm sàng ta gọi là chưa suy tim.

Loại 2: Bệnh nhân bị bệnh tim, bị giới hạn hoạt động thể lực nhẹ, thoải mái khi nghỉ ngơi, hoạt động thể lực bình thưòng gây ra mệt mỏi hồi hộp khó thở hay đau ngực. Về lâm sàng ta gọi là suy tim độ 1.

Loại 3: Bệnh nhân bị bệnh tim, bị hạn chế thể lực rõ rệt, thoải mái khi nghỉ ngơi, hoạt động thể lực nhẹ nhàng đã gây ra mệt mỏi hồi hộp khó  thở hay đau tức ngực. Về lâm sàng ta gọi là suy tim độ 2.

Loại 4: Bệnh nhân bị bệnh tim, làm cho không có khả năng thực hiện bất kỳ một hoạt động thể lực nào mà không khó chịu. Những triệu chứng suy tim hay triệu chứng đau tức ngực có biểu hiện ngay cả lúc nghỉ ngơi. Mệt mỏi khó chịu tăng lên khi hoạt động thể lực. Về lâm sàng ta gọi là suy tim độ 3:  khó thở khi nghỉ ngới. Khám gan to dưới bờ sườn. Phản hồi gan tĩnh mạch cổ nổi (+).

Về lâm sàng ta gọi là suy tim độ 4: Bệnh nhân khó thởi khi nghỉ ngơi phải ngồi để thở, gan to không phục hồi. Phản hồi tĩnh mạch cổ âm tính (-).

Xếp loại điều trị:

Trong lâm sàng thường xếp loại theo lượng hoạt động thể lực (cũng theo NYHA), nêu ở đây để tham khảo.

Loại A: Bệnh nhân bị bệnh tim mà nhu cầu hoạt động thể lực của họ không bị hạn chế. Đây là trường hợp hãn hữu trong thai nghén, dù có sự tăng lên của gánh nặng của  thai nghén (chưa suy tim).

Loại B: Bệnh nhân bị bệnh tim mà nhu cầu hoạt động thể lực thông thường của họ đã bị hạn chế, nhưng họ được khuyên tránh cố gắng sức lực hay những cố gắng thể lực (suy tim độ 1).

Loại C: Bệnh nhân bị suy tim mà hoạt động thể lực thông thường của họ đã bị hạn chế mức trung bình và gắng sức tích cực hơn bị gián đoạn, vì khó  thở (suy  tim độ 2).

Loại D: Bệnh nhân bị suy tim mà hoạt động thể lực thông thường đã bị hạn chế đáng kể, chỉ ngồi để thở (suy tim độ 3).

Loại E: Bệnh nhân bị suy tim, phải nghỉ ngơi hoàn toàn hay phải ngồi để thở cũng khó thở (suy tim độ 4).

Nhiễm khuẩn: Các nhiễm khuẩn hô hấp, viêm nội mạc nhiễm khuẩn.

Ứ huyết: Dịch đưa vào quá nhiều: do uống, tiêm truyền.

Ứ dịch: Ăn mặn Nacl, nhiễm độc thai nghén, chửa trứng, dùng liệu pháp cortison ở bệnh thận.

Quá gắng sức, hoạt động thể lực, tinh thần quá mức và cả khi giao hợp.

Rối loạn nhịp tim.

Thiếu máu.

Béo bệu.

Cường giáp trạng.

Những biến chứng tắc huyết khối (thromboembolic complication).

Định nghĩa suy tim của bệnh tim khi có thai:

Suy tim là trạng thái bệnh lý, cơ tim mất hay giảm khả năng co bóp cung cấp máu đi nuôi cơ thể theo nhu cầu cơ thể lúc gắng sức, rồi cả sau khi nghỉ ngơi.

Chức năng huyết động của tim phụ thuộc vào 4 yếu tố:

Tiền gánh: Là lực co bóp tối đa của những sợi cơ tim ở cuối tâm trương xấp xỉ kích cỡ hay thể tích thất trái cuối tâm trương.

Hậu gánh: Là lực đối lập với sự rút ngắn của sợi cơ thất trái trong kỳ tâm thu, là sức cản mà cơ tim gặp phải khi co bóp để tống máu vào tuần hoàn đứng hàng đầu là sức cản ngoaị vi.

Sức co bóp của cơ tim: Những quá trình cơ học và hoá học ở cơ tim để sinh ra lực rút ngắn sợi cơ (co cơ), co rồi giãn thành từng nhịp

Tần số nhịp tim: bình thường tần số nhịp tim 80 lần/phút. Nếu suy tuần hoàn là tần số tim tăng 12,4 lần/phút, mặc dù cơ tim co bóp còn tốt.

Suy  tim: khi yếu tố 3 bị suy yếu và kéo theo suy tuần hoàn. Vì vậy, trong điều trị suy tim đầu tiên phải là trợ tim  để làm tăng sức co bóp cơ tim.

Biến cố suy tim:

Có thể xảy ra từ tháng thứ 4 của thai kỳ khi thể tích máu bắt đầu tăng cho đến tháng thứ 8 giữ nguyên mức này, cho đến sau đẻ bắt đầu giảm dần. Khi đẻ có thể suy tim cấp. Sau đẻ có cho con bú, suy tim lại dần xuất hiện. Biến cố suy tim chiếm 84% các biến cố tim sản, nhưng tỷ lệ tử vong chỉ chiếm khoảng 15,56 – 30,09% các trường hợp tim sản. (2,3).

Chẩn đoán:

Lâm sàng: dựa vào những dấu hiệu chính như: khó thở (tần số, cách thở, tư thế bệnh nhân,...), mạch thường nhanh, ít khi chậm. Gan to dưới bờ sườn...

X quang tim phổi:  trên phim chụp thẳng và nghiêng có uống thuốc cản quang có thể thấy diện tim to và chèn ép vào thực quản.

Điều trị suy tim trong thai nghén:

Thuốc trợ tim: Digoxin thường được dùng để tăng cường sức co bóp cơ tim, làm tăng trương lực cơ tim, chậm nhịp tim, giảm trương lực máu ngoại vi và gây lợi tiểu. Nồng độ thuốc ở cơ tim cao gấp 25 lần ở máu. Viên, ống:  1/4mg. Trước khi dùng cần xem chỉ định và chống chỉ định.

Với suy tim nhịp tim nhanh:

Liều tấn công: 2 viên hay 2 ống/ngày chia hai lần, trong một đến hai ngày đầu.

Liều duy trì: 1 viên/ngày trong 3 ngày tiếp theo rồi nghỉ thuốc 2 ngày.

Tiếp liều duy trì: cách ngày 1 viên, hay dùng liền 5 ngày nghỉ 2 ngày.

Cơn nhịp nhanh (> 120 c/ phút): Cedilanid (Lanatozit C) ống 0,4 mg tiêm tĩnh mạch chậm, ngày có  thể dùng từ 1- 4 ống. Liều tăng dần từ thấp tới cao cho đến khi có hiệu quả.

Chống chỉ định Digoxin: mạch dưới 90 lần/phút. Block nhĩ thất cấp 2 và 3. Rung nhĩ kết hợp với hội chứng Wolff Parkinson White. Rung thất, nhồi máu cơ tim, Kali máu thấp. Nếu có dấu hiệu ngộ độc Digoxin phải ngừng thuốc lại ngay.

Với suy tim nhịp tim chậm:

Thuốc được chọn: Uabain (Strophantin acetyl ) ống 1/4mg  + 10 ml dung dịch glucose 5% tiêm tĩnh mạch chậm, một ngày có thể dùng tới 2 ống.

Thuốc lợi tiểu: Furosemid (Lasix) ống 10, 20mg, viên 40 mg. Liều lượng tuỳ theo nhu cầu điều trị cho từng bệnh nhân,  từng đợt ngắn, uống với kali trước khi đi ngủ, không nên dùng kéo dài dễ gây tình trạng mất nước.

Chống chỉ định: Bệnh não, xơ gan, dị ứng sulfamid, bí tiểu, hạ thể tích máu, mất nước.

Oxy liệu pháp: Nên cho bệnh nhân thởi oxy ngắt quãng qua xông mũi.

An thần: Dùng Diajepam (seduxen).

Chăm sóc: Ăn nhạt (hạn chế Natriclorua). Hạn chế đi lại, vận động.

Đánh giá điều trị:

Nếu bệnh nhân có đáp ứng với điều trị, thai gần đủ tháng, ta có thể tiếp tục điều trị nội khoa để giữ thai đến đủ tháng ; sau đó nên chủ động mổ lấy thai để tránh rối loạn huyết động trong chuyển dạ

Nếu bệnh nhân không đáp ứng với điều trị, mức suy tim không giảm hay giảm không đáng kể, nên chủ động đình chỉ  thai nghén để cứu mẹ là chủ yếu.

Phù phổi cấp

Trong suy tim có xuất hiện phù phổi cấp hoặc phù phổi cấp đơn thuần. Tỷ lệ phù phổi cấp chỉ chiếm 15% các biến cố tim sản, nhưng lại chiếm tới 50% các tử vong tim sản, hay gặp trong hẹp van hai lá.

Quá trình này khởi đầu bằng ứ máu nhĩ trái, ứ máu phổi, phù phổi, rồi phù phổi cấp. Kèm theo nó là thiếu oxy mô, do suy tim không cung cấp máu đủ tới mô, là tăng sức cản ngoại vi do ứ trệ tuần hoàn của suy tim hay do huyết áp tăng.

Triệu chứng và chẩn đoán:

Cơn phù phổi cấp: Cơn phù phổi hay xảy ra đột ngột vào buổi sáng (từ 5 - 12 giờ sáng). Ban đầu bệnh nhân cảm thấy rất khó chịu, lo lắng, tức ngực, ngứa cổ họng, húng hắng ho, rồi đột ngột rất khó thở, phải ngồi dậy để thở. Mức khó thở ngày càng tăng, như ngạt thởi rồi khạc ra bọt loãng lẫn bọt mầu hồng chỉ trong vài phút. Tỷ lệ tai biến phù phổi cấp thấp 2,24%, nhưng lại có tỷ lệ tử vong cao tới 50% các trường hợp phù phổi cấp (2,3).

Khám thực thể: Nhìn mặt mày xanh tím, vã mồ hôi, vật vã, ngồi dựa để thở.

Khám phổi: Gõ lồng ngực trong vang, do phế nang căng phình để cố thở bù. nghe hai phổi đầy ran hạt, từ đáy phổi dâng lên rất nhanh khắp hai phế trường như triều dâng.

Khám tim: Khó nghe thấy tiếng bệnh lý như trước đó, vì các triệu chứng thực thể của phổi làm mờ đi, tiếng tim loạn nhịp, ngựa phi...

Thể lâm sàng:

Thể tối cấp: Bệnh nhân đột ngột khó thở rất nặng, có thể chết ngay chưa kịp khạc ra bọt màu hồng. Một cái chết đột ngột, khi mổ tử thi mới thấy bọt màu hồng đầy các phế nang và phổi phù to...

Thể nhẹ: Bệnh nhân khó thở ít, tuy phải ngồi dậy để thở, khạc ra ít bọt lẫn máu. Bệnh cảnh này thường xảy ra khi bệnh nhân gắng sức ở những bệnh nhân bị hẹp van hai lá.

Điều trị:

Hạ áp lực tiểu tuần hoàn: Bằng garô 3 chi luân hồi (2 chân và một tay) bệnh nhân vẫn ở tư thế nửa nằm nửa ngồi (tư thế Fowler).

Oxy liệu pháp: trước khi cho thở oxy, phải làm  thông đường hô hấp ở trên bằng hút đờm rãi ở mũ, miệng, họng. Đặt xông mũi và cho bệnh nhân thở oxy qua xông, oxy phải chạy qua lọ nước có pha cồn để hơi cồn làm tan bọt trong phế nang, để oxy tiếp xúc trực tiếp với thành phế nang. Thở oxy như vậy mới có hiệu quả.

Lợi tiểu mạnh để hạ thể tích máu:  Furosemit (Lasix, Lasilix) 20 mg/ống. Tiêm tĩnh mạch với liều cao, sao cho trong một giờ đầu ống dẫn lưu nước tiểu của bệnh nhân ra nước tiểu được khoảng 1,5 - 2,0 lít. Thường bắt đầu tiêm tĩnh mạch từ 2 ống Lasix trở lên.

An thần chống xuất tiết: Dùng morphin 0,01 g tiêm tĩnh mạch hay bắp.

Trợ tim: DùngUabain hay Digoxin tiêm tĩnh mạch tuỳ theo mạch lúc đó.

Đánh giá sau điều trị cơn phù phổi cấp:

Nếu bệnh nhân đang có thai: Sau khi điều trị cơn phù phổi cấp có kết quả, ta nên tiếp tục điều trị thêm vài ngày nữa, chừng 3 – 5 ngày, cho tình trạng phù phổi ổn định. Khi tình trạng bệnh đã ổn định ta nên mổ lấy thai ngay để cứu mẹ không kể tuổi thai. Nếu chần chừ lâu, bệnh nhân có  thể lên cơn phù phổi cấp khác rất nguy hiểm cho tính mạng.

Nếu bệnh nhân đang chuyển dạ đẻ: đây là tình trạng rất nguy hiểm, mổ hay đẻ forcep đều đe doạ tử vong mẹ. Tốt nhất lúc này là điều trị phù phổi cấp tích cực và trì hoãn cuộc đẻ, để tránh rối loạn huyết động trong chuyển dạ vì rất khó khăn trong gây mê.

Nếu bệnh nhân có tiền sử phù phổi cấp, nay đang có thai, phù phổi cấp rất dễ tái phát, nên đình chỉ thai nghén khi có đủ điều kiện.

Loạn nhịp tim

Xếp loại loạn nhịp tim theo điểm xuất phát và dẫn truyền:

Loạn nhịp tim xuất phát từ nút Keith – Flack (loạn nhịp xoang) có thể thay đổi. Điện tâm đồ xuất hiện đủ hai phần nhĩ và thất.

Loạn nhịp tim ngoài nút Keith – Flack không có khả năng thay đổi. Điện tâm đồ thiếu một phần nhĩ hay thất.

Xếp loại theo lâm sàng:

Loạn nhịp đều:

Loạn nhịp nhanh: nếu không có điện tâm đồ ta chẩn đoán dựa vào nhịp đập tần số mạch:  140 – 200 lần/phút, cơn nhịp nhanh Bu-vơ-rê.

120 – 140 lần/phút, rung nhĩ

80-120 lần /phút, nhanh từ nút Keith – Flack.

Nhịp trung bình 70 lần/phút.

Loạn nhịp chậm: Từ 60 xuống 40 lần/phút, chậm từ nút Keith – Flack

Từ 60 xuống 40 lần/phút, Blốc nhĩ thất.

Chẩn đoán loạn nhịp đều dễ bằng đếm mạch/phút, hoặc đo trên điện tâm đồ có độ chính xác hơn, nhất là nhịp tim nhanh trên 140 lần/phút.

Loạn nhịp tim không đều (ngoại tâm thu):

Có luồng thần kinh xuất phát mạnh hơn bình thường, từ một trung tâm kích thích trên hay ngoài luồng dẫn truyền làm tâm thất co bóp sớm hơn. Vì thất co bóp sớm (ngoại tâm thu), nên sau đó thời gian chỉ kéo dài hơn, được gọi là thời gian bù.

Chẩn đoán:

Triệu chứng cơ năng: Bệnh nhân cảm thấy trống ngực hay như ngừng đập và có bị cảm giác như hụt hẫng. Nếu ngoại tâm thu xảy ra lúc đang ngủ, bệnh nhân bị giật mình.

Triệu chứng thực thể: Nghe tiếng tim hay bắt mạch quay, thấy nhịp tim đập không đều có lúc bỏ đập. Lâm sàng, thường đánh giá tỷ lệ % bỏ nhịp, từ trên 5% coi như bệnh lý. Nếu có ngoại tâm thu hai lần liền (ngoại tâm thu kép) nhiều là nguy cơ cấp.

Điện tâm đồ: ngoại tâm thu trên thất: QRS không biến dạng. Ngoại tâm thu thất QRS có biến dạng.

Loạn nhịp tim hoàn toàn:

Nhip tim đập không đề cả về thời khoảng và biên độ do rung nhĩ. Rung nhĩ là hiện tượng phân ly nhĩ thất, nên nhịp thất chậm hơn, thất đập không đều. Máu xuống thất không đủ lưu lượng máu giảm từ 20 - 30% nhất là khi gắng sức. Tìm phì đại rồi suy, máu ứ lại nhĩ, nhất là ở trong hẹp van hai lá dẫn đến đông máu trong nhĩ rồi tiếp đó là bệnh huyết khối.

Chẩn đoán: Bệnh nhân cảm thấy hồi hộp khó chịu, mạch quay nhanh không đều. Nếu có rung tâm trương nghe khó thấy. Ngoại tâm thu có lúc thưa, có lúc dồn dập. Vì vậy theo dõi và chẩn đoán ngoại tâm thu phải có thời gian.

Điện tâm đồ: Msất sóng P ở các đạo trình. Có khi thấy một đạo trình có nhiều sóng P, khoảng R-R không đều, biên độ R không bằng nhau.

Điều trị:

Nói chung điều trị loạn nhịp khó, cần nên chẩn đoán chính xác bằng điện tâm đồ và có bằng cớ để theo dõi và đánh giá kết quả điều trị. Trước khi điều trị nên hội chẩn với bác sỹ chuyên khoa tim mạch. Những thuốc dưới đây hay được dùng trong loạn nhịp tim: Amidaron, Bretyliumtosylat, Digoxin, Disopyramid (thuộc bảng C) ; Encainamid (bảng B) ; Flecain (bảng C) ; Lidocain (bảng B) ; Lidocain, Mexiletin, Bu-vơ-rê có thể ấn hai nhãn cầu cũng đỡ.

Tắc huyết khối

Sự hình thành huyết khối:

Huyết khối tim bắt đầu hình thành từ nhĩ và từ van hai lá. Sau khi đã hình thành, cả cục huyết khối vỡ ra thành từng mảnh to nhỏ khác nhau trôi theo dòng máu tuần hoàn, nó mắc lại ở nơi nào gây tắc mạch nơi đó. Huyết khối bao giờ cũng bắt đầu từ tăng Prothromobin là cơ sở tạo fibrin kết dính tiểu cầu với hồng cầu để hình thành huyết khối. Trong lâm sàng, vị trí tắc huyết khối hay gặp ở động mạch vành, mạch máu não, mạch máu phổi, mạch mạc treo ruột,...

Chẩn đoán:

Tai biến huyết khối có thể gặp ở bất kỳ thời gian nào của thai nghén, nhưng hay gặp nhất thường ở đầu tuần thứ hai sau đẻ, sau mổ đẻ và trong tuần thứ nhất sau nạo, sau sẩy thai ; và hay gặp nhất ở bệnh nhân hẹp van hai lá. Triệu chứng chung là đau ở nơi tắc, mới đầu đau thành từng cơn, sau đau gần như liên tục. Ví dụ: tắc ở não thì nhức đầu. Tắc ở mạch vành:  đau tức ngực. Tắc ở mạch treo ruột: đau bụng.

Dấu hiệu hậu quả của chúng: Tắc ở não gây liệt khu trú. Tắc ở mạch vành gây huyết áp hạ hay ngừng tim. Tắc ở mạc treo ruột có dấu hiệu bụng ngoại khoa.

Tiên lượng:

Khi đã có dấu hiệu lâm sàng là đã tắc. Điều trị nội khoa khó, dễ để lại di chứng. Tốt nhất nên ngăn cản tỉ lệ prothrombin không cho tăng cao đến mức có khả năng hình thành huyết khối.

Điều trị:

Đã hình thành huyết khối: Chưa có thuốc tan cục huyết khối đặc hiệu. Có thể dùng Kabikinase (Streptokinase), Actilyse (Alteplase), Eminase (Anistre-plase), Urokinase chúng đều kích hoạt hoá Plasminogene thành Plasmin hy vọng làm tan cục huyết khối của:  nhồi máu cơ tim, huyết khối tĩnh mạch ở sâu, khối tắc mạch phổi lớn, ở giai đoạn rất sớm. Còn chủ yếu là thuốc chữa triệu chứng như:  chống đau, phòng loét, trợ hô hấp, chống nhiễm trùng,...

Phòng huyết khối: Có thể dùng chất chống đông, chế phẩm kháng vitamin K để khống chế tỉ lệ prothrombin bằng sintrom (Anodicoumaron), viên 4mg, liều uống cho theo mức prothrombin của bệnh nhân mà mình định khống chế có thể dùng từ 1/ 2 –1 đến 6mg/ngày. Trong quá trình điều trị, phải luôn theo dõi và đánh giá kết quả điều trị bằng lâm sàng và tỷ lệ prothrombin để điều chỉnh liều sintrom. Khi có hiện tượng biến chứng chảy máu do thuốc cần tiêm ngay vitamin k để trung hoà sintrom đang có trong máu, theo phác đồ sau:

Bảng: Liều vitamin K trung hoà thuốc uống chống đông máu.

Chảy máu đe doạ cuộc sống:

Tiêm ngay (0,5mg) vitamin K vào tĩnh mạch, và hoặc dung dịch những yếu tố II, IX, X với yếu tố VII (nếu có sẵn) hoặc huyết tương đông tưới.

Chảy máu nặng:

Đái ra máu hay chảy máu cam do dùng quá liều 1-2 ngày.

Tiêm vitamin K tĩnh mạch liều từ 0,5 – 0,2 mg

Không chảy máu nhưng trên 4,5 tỷ lệ thời gian APTT bình thường

Đã quá liều uống Warfarin 1-2 ngày cần theo dõi sát

Chảy máu bất thường ở mức độ liệu pháp.

Chống chỉ định khi thai còn trong tử cung vì sintrom qua được rau thai.

Dự phòng huyết khối bằng Heparin tiêm bắp 5000 – 10.000 đơn vị/ngày, dùng Heparin lâu dài có thể có tác dụng rỗ xương. Chảy máu do liệu pháp Heparin có thể do đông máu kéo dài, do giảm tiểu cầu. Nên khi điều trị cần theo dõi và duy trì mức APTT (acivated partial thromboplastin time) giữa 1,5 – 2 lần thời gian bình thường (7) ( thời gian vón cục máu bình thường 30 – 40 giây). Nếu có chảy máu dùng Protamin sulfat để trung hoà Heparin, tính liều trung hoà 1mg/100 đơn vị Heparin (6).

Viêm nội mạc tâm bán cấp

Nguyên nhân

Sau đẻ, các mạch máu ở vùng bánh rau bám cũ đã được bít kín bằng các nút cầm máu, là nơi thuận tiện cho vi khuẩn phát triển gây nhiễm khuẩn ở tử cung, vào máu, gây viêm nội mạc tâm bán cấp. Mặt khác, sau đẻ sức đề kháng của sản phụ giảm, nên càng dễ nhiễm khuẩn vào máu gây viêm nội mạc tâm bán cấp là bệnh cảnh nhiễm trùng thường gặp sau đẻ.

Chẩn đoán

Biểu hiện lâm sàng gồm: sốt cao từng cơn hay liên tục, sốt có rét run, môi khô, lưỡi bẩn, vẻ mặt nhiễm khuẩn. Về sản khoa: tử cung co hồi chậm, nắn và di động tử cung không đau. Sản dịch có mùi hôi. Xét nghiệm máu:  bạch cầu tăng cao. Cấy máu:  tìm vi khuẩn gây bệnh và làm kháng sinh đồ, thường chỉ dương tính từ 1/3 đến 1/2 trường hợp.

Điều trị

Điều trị theo phác đồ nhiễm khuẩn huyết: chọn kháng sinh theo kháng sinh đồ, liều theo nồng độ ức chế tối thiểu, tuỳ loại yếm hay kị khí gây bệnh mà kéo dài thời gian duy trì điều trị kháng sinh. Kết quả điều trị thường nghèo nàn. Vì vậy, dự phòng là chủ yếu:  vô khuẩn tốt trong chuyển dạ, thực hiện đúng chỉ định sản khoa, nên dùng kháng sinh nhóm bêta lactamin để dự phòng.

Xử trí tim - sản

Xử trí Nội khoa

Mục đích: Dự phòng và điều trị các tai biến có thể xảy ra.

Theo dõi sát tình trạng bệnh nhân hàng tuần từ khi có thai để phát hiện sớm những  tai biến tim sản và điều trị kịp thời.

Bệnh nhân phải nghỉ ngơi, ăn nhạt theo hướng dẫn của chuyên khoa tim mạch một  cách nghiêm túc, kể cả theo dõi lượng nước tiểu hàng ngày.

Chế độ điều trị:

Trợ tim: Tuỳ theo mạch mà dùng Digoxin hay Uabain.

Lợi niệu: Furosemid kèm kali clorua từng đợt.

An thần: Diazepam...

Phòng nhiễm khuẩn: Bằng kháng sinh nhóm bêta lactamin.

Phòng ngừa vón cục máu Haparin khi đang có thai.

Xử trí sản khoa

Phương châm của sản khoa: bảo vệ mẹ là chính, có chiếu cố tới con, theo nguyên tắc dựa vào tình trạng suy tim như sau:

Thai phụ chưa suy tim:

Với con rạ: Nên đình chỉ thai nghén bất kỳ tuổi thai nào. Nếu phát hiện muộn, thai gần đủ tháng mà tình trạng bệnh của mẹ cho phép, có thể giữ thai đến đủ tháng. Khi đó, nên tìm biện pháp thích hợp để kết thúc thai nghén.

Với con so: Thai phụ có thể giữ thai để đẻ với điều kiện thai phụ cần được theo dõi và chăm sóc hàng tuần của chuyên khoa tim mạch và chuyên khoa sản tốt để đề phòng những biến cố tim sản có thể xảy ra. Thai phụ nên được chăm sóc tại bệnh viện, trước khi đẻ một tháng.

Thai phụ đã bị suy tim:

Với con rạ: Phải đình chỉ thai nghén bất kỳ tuổi thai nào bằng những biện pháp an toàn và triệt để nhất. Tuỳ theo mức độ suy tim, từng loại bệnh tim, tuỳ tuổi  thai mà chọn phương pháp thích hợp như:  nạo thai triệt sản, mổ cắt tử cung cả khối, mổ lấy thai tiếp cắt tử cung bán phần. Hoặc để điều trị thêm một thời gian cho thai đủ tháng rồi mới đình chỉ thai nghén.

Với co so: Cần có sự cân nhắc kỹ của hai thầy thuốc sản và tim mạch

Nếu thai phụ đang bị suy tim độ I, II mà thai còn nhỏ (dưới 6 tháng) nên phá thai để bảo vệ cuộc sống của thai phụ. Nếu thai nghén đã trên 6 tháng tuổi, tuỳ theo mức suy tim, loại bệnh tim, nguyện vọng của thai phụ, khả năng điều trị, có thể giữ thai đến đủ tháng. Khi giữ thai, cần đánh giá kết quả điều trị hàng ngày:  nếu không đáp ứng với điều trị, nên đình chỉ thai nghén để bảo vệ cuộc sống cho mẹ là chính.

Nếu thai phụ đang bị suy tim độ III, IV ta nên đình chỉ thai nghén bất kỳ tuổi  thai nào. Vì để thai nghén tiếp tục bệnh tim sẽ càng nặng hơn. Khi có quyết định đình chỉ thai nghén, ta cần chọn thời cơ và phương pháp tốt nhất. Ví dụ nên điều trị tích cực suy tim trong thời gian ngắn để tình trạng bệnh nhân tốt hơn, lúc đó cần chỉ định ngay. Không nên vội vàng khi thai phụ không được chuẩn bị cả về chuyên môn và tư tưởng dễ bị sai sót.

Các biện pháp đình chỉ thai nghén trong tim sản

Chọn biện pháp đình chỉ thai nghén trong tim sản, phụ thuộc vào: tình trạng bệnh nhân, tuổi thai, tình trạng của thai và của từng bệnh nhân cụ thể. Đây là những biện pháp có thể chọn để đình chỉ thai nghén trong tim sản.

Hút điều hoà kinh nguyệt. Hút điều hoà kinh nguyệt và triệt sản.

Nạo phá thai. Nạo phá thai và triệt sản.

Mổ cắt tử cung cả khối.

Mổ lấy thai. Mổ lấy thai tiếp, cắt tử cung bán phần.

Mỗi biện pháp đều có ưu điểm và nhược điểm của nó. Nói chung, trước, trong và sau khi tiến hành một trong các biện pháp trên cần lưu ý những điểm sau:

Phòng ngừng tim đột ngột:

khi chạm vào cổ tử cung để cặp hay nong cổ tử cug dễ gây kích thích cho khả năng tạo phản xạ ngừng tim đột ngột. Để tránh tai biến này, cần áp dụng kỹ thuật tiền mê hay gây mê tốt trước khi tiến hành thủ thuật.

Phòng ngừa huyết khối:

Có khả năng hình thành huyết khối trong và sau khi làm thủ thuật. Tai biến huyết khối hay xảy ra ở những ngày sau khi làm xong thủ thuật. Phòng chống tai biến này bằng dùng các thuốc chống vón cục máu. Trước khi làm thủ thuật hay phẫu thuật 2 ngày, hãy dùng Heparin từ 5.000 – 10.000 đơn vị/ngày để tiêm dưới da chia làm hai lần cách nhau 12 giờ. Nghỉ thuốc một ngày trước khi làm thủ thuật để tránh chảy máu do thuốc chưa chuyển hoá hết. 24 giờ sau khi hoàn thành thủ thuật ( qua giai đoạn chảy máu có thể do thủ thuật), dùng thêm 2 ngày Heparin với liều và cách dùng như trên. Khi dùng Heparin, phải theo dõi dấu hiệu chảy máu lâm sàng, APTT hàng ngày, nếu kéo dài (bình  thường từ 15 – 20 giây) phải ngừng ngay mũi Heparin tiếp theo và dùng ngay Protamin sulfat 5% ống 5 ml, tiêm tĩnh mạch chậm để trung hoà Heparin. (10 mg tương ứng trung hoà với 1.000 đơn vị Heparin).

Tiếp theo liệu pháp Heparin, nên dùng tiếp thêm liệu pháp Warfarin. Sintrom (Acenocoumarol), cần phải theo dõi tỷ lệ Prothrombin, nếu quá thấp dưới 25% hay lâm sàng có dấu hiệu chảy máu phải ngừng thuốc và tiêm tĩnh mạch vitamin K ngay để trung hoà sintrom (như ở bảng 1).

Phòng ngừa nhiễm khuẩn trong và sau thời gian làm thủ thuật:

Bằng thực hiện vô khuẩn tốt, dùng kháng sinh dự phòng, loại bỏ những yếu tố nguy cơ.

Vấn đề hồi sức:

Khi làm thủ thuật có chảy máu cần phải hồi sức, phải chú ý lượng dịch truyền và lượng nước tiểu ra, vì dễ gây quá tải lưu lượng tim, dẫn đến suy tim nặng hơn hay phù phổi cấp.

Nguyên tắc xử trí trong chuyển dạ

Khi đang chuyển dạ: Cần trợ tim, an thần, thở oxy đầy đủ, để đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu thụ oxy do cơn co tử cung, sự chịu đựng của người mẹ

Khi cổ tử cung mở trên 4 cm: nên bấm ối nếu ối dẹt để rút ngắn thời gian chuyển dạ, để giảm thời gian rối loạn huyết động và gánh nặng cho tim.

Giai đoạn sổ thai: Nên đẻ bằng forceps, để tránh gắng sức cho sản phụ khi rặn đẻ.

Tránh rối loạn huyết động khi sổ thai: Khi sổ thai, tử cung nhỏ dần áp lực ổ bụng giảm, máu từ chân dồn về ổ bụng nhanh, gây thêm tình trạng rối loạn huyết động, bằng cách đặt túi cát lên bụng bệnh nhân, đồng thời hạ hai chân bệnh nhân xuống thấp để máu ít dồn về bụng.

Thời kỳ sổ rau: Tôn trọng sinh lý của sổ rau thường, chỉ can thiệp khi nó trở nên bất thường. Sau sổ rau, cần kiểm tra bánh rau kỹ và hạn chế kiểm soát tử cung. Vì sót rau và thao tác kiểm soát tử cung dễ gây nhiễm khuẩn sau đẻ ở sản phụ bệnh tim dễ bị viêm nội tâm mạc bán cấp.

Thời kỳ hậu sản: Nên dùng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn. Chỉ nên cho bú trong 3 tháng đầu nếu mẹ không suy tim. Quá trình nuôi con bằng sữa mẹ, bệnh nhân phải được theo dõi đánh giá các tai biến tim sản, nếu xuất hiện dấu hiệu bất thường phải thôi cho con bú ngay. nếu mẹ có suy tim, gan to không nên nuôi con bằng sữa mẹ, kể cả việc bế con.

Can thiệp ngoại khoa

Hiện nay nhiều bệnh tim (hẹp van hai lá, thông liên nhĩ, còn ống động mạch) đã điều trị ngoại khoa có kết quả tốt. Thai phụ bị bệnh tim, có thai dưới 7 tháng tuổi, theo Thimbert vẫn còn khả năng mổ  tim. Vì tỷ lệ nguy cơ sau mổ cho thai phụ cũng tương đương với mổ tim ở ngoài thời kỳ thai nghén. Sau mổ tim, các biến cố tim sản giảm so với nhóm không điều trị ngoại khoa.

Phòng bệnh

Những công việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu về bệnh tim và thai nghén

Tuyến cơ sở: Nâng cao công tác tuyên truyền, quản lý sức khoẻ toàn dân (chăm sóc sức khoẻ ban đầu) đặc biệt với nữ bị bệnh tim phải có kế hoạch cho việc sinh đẻ, nuôi con.

Tuyên truyền giáo dục: Về những biến cố tim sản cho nam nữ thanh niên, đặc biệt ở những cặp vợ chồng trẻ. Có kế hoạch phòng ngừa thai cho nữ có bệnh tim khi họ đã có một con.

Đăng ký quản lý thai sớm: Để phát hiện nữ mắc bệnh tim có thai, để thực hiện biện pháp chăm sóc thích hợp cho từng trường hợp, tránh những biến cố có thể xảy ra.

Sau đẻ: Sản phụ phải được chăm sóc, theo dõi, khám định kỳ về các biến cố tim sản có thể xảy ra trong thời gian nuôi con, đặc biệt những sản phụ nuôi con bằng sữa mẹ.

Nên có biện pháp tránh thai tạm thời hay vĩnh viễn thích hợp cho các phụ nữ bị bệnh tim.

Bài viết cùng chuyên mục

Bài giảng các biện pháp tránh thai áp dụng cho nữ giới

Ngoài vấn đề hiệu quả tránh thai cao, các phương pháp tránh thai còn phải không ảnh hưởng đến người sử dụng và được chấp nhận sử dụng một cách rộng rãi.

Bài giảng các biện pháp tránh thai áp dụng cho nam giới

Vai trò của nhân viên y tế là cung cấp cho khách hàng mọi thông tin về những thuận lợi, bất lợi cũng như cách sử dụng của mỗi phương pháp

Bài giảng sự tiết sữa và cho trẻ bú

Hiện tượng chế tiết bắt đầu ngay từ tháng thứ 3, tạo ra sữa non. Sữa non giàu protein, lactose và globulin miễn dịch. Sữa non tồn tại cho đến lúc xuống sữa, tức là sau đó vài ngày.

Bài giảng vệ sinh kinh nguyệt

Người ta thường nói, kinh nguyệt là tấm gương phản ánh sức khoẻ người phụ nữ, do đó khi có kinh nguyệt, cần phải giữ vệ sinh cần thiết để cơ thể được sạch sẽ và tránh mắc các bệnh đường sinh dục.

Bài giảng vệ sinh thai nghén

Tình trạng thai nghén là tình trạng sinh lý không ổn định, dễ chuyển sang bệnh lý. Trong khi có thai sức đề kháng của người phụ nữ giảm đi, nên có thể mắc một số bệnh. Bởi vậy, nếu lúc bình thường phải giữ những điều vệ sinh nhất định.

Bài giảng nhiễm độc thai nghén ba tháng cuối thai kỳ

Nhiễm độc thai nghén là tình trạng bệnh lý do thai nghén gây ra trong ba tháng cuối thai kỳ gồm ba triệu chứng chính: phù, tăng huyết áp và protein niệu.

Bài giảng nhiễm độc thai nghén (ốm nghén) ba tháng đầu thai kỳ

Những thai phụ có những tổn thương cũ ở đường tiêu hoá như: viêm ruột thừa, bệnh đường mật, viêm loét dạ dày tá tráng, khi có thai dễ gây ra phản xạ nôn và nôn.

Bài giảng tiền sản giật

Tiền sản giật là giai đoạn quá độ từ nhiễm độc thai nghén biến chứng thành sản giật. Giai đoạn tiền sản giật có thể diễn biến khoảng vài giờ, vài ngày, vài tuần, tuỳ mức độ nặng nhẹ của bệnh; cũng có thể thoáng qua gần như bỏ qua giai đoạn này.

Bài giảng sinh lý phụ khoa

Sinh lý phụ khoa nghiên cứu tất cả những vấn đổ có liên quan đến những thay đổi về tính chất sinh dục và hoạt động sinh dục của người phụ nữ, chủ yếu là những hoạt động của bộ phận sinh dục nữ.

Sử dụng một số hormon trong sản phụ khoa

Trong trường hợp u xơ tử cung chưa muốn chỉ định mổ vì nhu cầu sinh sản, có thể dùng teslosteron propionat 25mg tiêm bắp thịt mỗi tuần. Kinh nguyệt có thể trở lại bình thường và khả năng sinh sản vẫn được duy trì

Sử dụng progestin trong sản phụ khoa

Đế giúp phát triển và tăng hoạt động sinh lý của tử cung cũng như của niêm mạc tử cung, người ta hay dùng các progestin tự nhiên như progesteron, hoặc gần giống tự nhiên như 17-hydroxyprogesteron.

Sử dụng Estrogen trong phụ khoa

Sử dụng hormon trong phụ khoa cũng như sử dụng hormon trong các chuyên ngành khác, nhằm thay thế các honnon đang bị thiếu, kích thích các tuyến nội tiết khi cần chúng hoạt động tốt hơn.

Bài giảng vòng kinh không phóng noãn

Vòng kinh không phóng noãn hay gặp vào tuổi dậy thì và tuổi tiền mãn kinh. Vào tuổi dậy thì, vùng dưới đồi chưa chế tiết đầy đủ Gn-RH nên tuyến yên chế tiết không đầy đủ FSH.

Bài giảng đau bụng kinh (thống kinh)

Thống kinh là hành kinh có đau bụng, đau xuyên ra cột sống, lan xuống hai đùi, lan ra toàn bộ bụng, kèm theo có thể đau đầu, căng vú, buồn nôn, thần kinh bất ổn định.

Bài giảng rong kinh rong huyết tuổi sinh đẻ

Kinh nhiều so với kinh nguyệt bình thường, hay kèm theo với rong kinh. Nếu huyết ra nhiều quá, trên 200ml/ngày, ảnh hưởng tới toàn trạng, mạch nhanh, huyết áp tụt thì gọi là băng kinh.

Bài giảng rong kinh rong huyết tiền mãn kinh

Nhiều khi gọi tắt là rong kinh tiền mãn kinh. Thực ra, có thể ban đầu là rong kinh, về sau huyết ra kéo dài, chảy máu không còn theo cơ chế kinh nguyệt nữa mà do thương tổn (viêm) ở niêm mạc tử cung và là rong huyết.

Bài giảng rong kinh rong huyết

Rong kinh rong huyết tuổi trẻ (metropathia juvenilis). Thường quen gọi là rong kinh dậy thì vì thông thường hay gặp vào tuổi dậy thì, cơ chế chảy máu của kinh nguyệt, ra máu kéo dài, máu nhiều và tươi, hay bị đi bị lại.

Bài giảng vô kinh (không hành kinh)

Theo định nghĩa, vô kinh là hiện tượng không hành kinh qua một thời gian quy định. Thời gian ấy là 18 tuổi đối với vô kinh nguyên phát, là 3 tháng nếu đã từng hành kinh đều, hoặc 6 tháng nếu đã từng hành kinh không đều trong tiền sử, đối với vô kinh thứ phát.

Bài giảng viêm sinh dục

Viêm sinh dục có lầm quan trong trong bệnh lý phụ khoa vì nó là nguyên nhân gây nhiều rối loạn trong đời sống và hoạt động sinh dục của người phụ nữ.

Bài giảng ung thư buồng trứng và khối u biểu bì

Cho đến nay, người ta chưa biết rõ nguyên nhân, tuy vậy những yêu tố như ô nhiễm môi trường đặc biệt là chất asbcstos, và bột talc là hai chất hoá học công nghiệp.

Bài giảng khối u tế bào mầm

Khối u tế bào mầm chiếm tỷ lệ khoảng 15 - 20% của tất cả các loại khối u buồng trứng, là loại khối u có nguồn gốc từ tế bào mầm. Khối u tế bào mầm thường gạp ở người trẻ tuổi, thường gặp dưới 20 tuổi.

Bài giảng khối u đệm buồng trứng

Khối u đệm buồng trứng thường là lành tính, hoặc độ ác tính thấp. Khoảng 50% khối u đệm buồng trứng là không có hoạt động nội tiết và hàu hết khối u đệm buồng trứng là u tế bào hạt (granualosa cell tumors).

Bài giảng đẻ khó do khung chậu

Để đánh giá mức độ méo của khung chậu hẹp không đối xứng người ta phải dựa vào trám Michaelis. Trám Michaelis được giới hạn trên là gai đốt sống thắt lưng 5.

Bài giảng ngôi vai trong sản khoa

Ngôi vai không có cơ chế đẻ nếu thai đủ tháng. Nhưng nếu thai quá nhỏ hoặc thai chết khi còn non tháng, khung chậu rộng, thai nhi có thể đẩy ra ngoài.

Bài giảng ngôi trán trong sản khoa

Ngôi trán chỉ xảy ra trong chuyển dạ. Nếu ngôi trán còn cao lỏng có thể tiến triển cúi thêm để biến thành ngôi chỏm hay ngửa thêm đê trở thành ngôi mặt.

Bài giảng ngôi thóp trước trong sản khoa

Ngôi thóp trước là ngôi đầu hơi ngửa, ngôi trung gian giữa ngôi chỏm và ngôi trán. Người ta cũng coi ngôi thóp trước là một loại ngôi trán sờ thấy thóp trước, ngôi trán hơi cúi. Tiên lượng và cách xử trí gần giống ngôi trán.

Bài giảng ngôi ngang trong sản khoa

Khái niệm ngôi ngang được đặt ra ở những tháng cuối của thai nghén hay khi chuyển dạ. Trong ngôi ngang các cực của thai không trình diện trước eo trên mà là các phần của thân mình như lưng, mạng sườn, bụng.

Bài giảng ngôi mông trong sản khoa

Trong hai quý đầu của thai kỳ, đầu thai nhi to hơn mông nên đầu thai thường nằm phía đáy tử cung. Sang quý III, mông thai nhi phát triển nhanh và to hơn đầu.

Bài giảng ngôi mặt trong sản khoa

Ngôi mặt là ngôi đầu ngửa hẳn, mặt trình diện trước eo trên. Mốc của ngôi là cằm. Ngôi mặt là ngôi đẻ khó hơn ngôi chỏm. Ngôi mặt kiểu thế trước dễ đẻ hơn ngôi mặt kiểu thế sau, nhưng chỉ có một kiểu sổ là cằm vệ, cằm cùng không sổ được.

Bài giảng đa thai (nhiều thai)

Tỉ lệ sinh đôi một noãn tương đối hằng định trên toàn thế giới, không phụ thuộc vào chủng tộc, di truyền, tuổi và số lần đẻ. Ngược lại, tỉ lệ sinh đôi hai noãn chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố.

Bài giảng giác hút sản khoa

Trên thế giới việc đánh giá lợi ích và tác dụng của giác hút có nhiều điểm khác nhau, nên tình hình sử dụng cũng khác nhau. Ớ Bắc Mỹ giác hút ít được sử dụng.

Bài giảng forcefs sản khoa

Forcefs bao gồm hai cành tách biệt nhau gọi là cành trái và cành phải và gọi là cành trái hay cành phải tuỳ thuộc nó sẽ được đặt vào bên trái hay bên phải của người mẹ.

Bài giảng ối vỡ sớm, ối vỡ non

Quan điểm về ối vỡ sớm trước tuần 37 vẫn đang còn tranh cãi. Ở nhiều nước trên thế giói quan niệm ối vỡ non hay ối vỡ sớm chỉ là một và được định nghĩa ối vỡ là rách màng ối.

Bài giảng choáng (sốc) trong sản khoa

Viêm nhiễm đường sinh dục, nhiễm trùng ối gây rối loạn chuyến hoá của tế bào tổ chức gây choáng và khả năng sử dụng oxy tế bào giảm nặng do màng tế bào bị tổn thương.

Những điểm đặc biệt khi tư vấn cho phụ nữ về HIV

Nên khuyên người phụ nữ xét nghiệm HIV trước khi quyết định có thai. Nhấn mạnh ý nghĩa của khả năng lây truyền từ mẹ sang con nếu họ có thai và nhiễm HIV.

Tư vấn cho người nhiễm HIV

Nhiệm vụ chủ yếu của người tư vấn trong giai đoạn này là hỗ trợ cho người nhiễm HIV đương đầu và tiếp tục sống vối bệnh tật một cách có ích. Neu có thế.

Tư vấn xét nghiệm HIV, AIDS ở phụ nữ có thai

Về nguyên tắc, tư vấn HIV/AIDS là tư vấn riêng biệt. Tuy nhiên, riêng tư vấn trước xét nghiệm có thế được lồng ghép một phần với giáo dục - truyền thông cho từng nhóm nhỏ.

Bài giảng tư vấn HIV, AIDS cho phụ nữ mang thai

Tư vấn không phải là dạy dỗ, khuyên bảo, mà là một quá trình trong đó người tư vân tìm hiêu và giúp người được tư vân tìm hiêu hoàn cảnh, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mình để giúp cho họ tìm hiểu khả năng và nhu cầu của bản thân, tự tin vào chính mình.

Bài giảng thăm dò trong phụ khoa

Trong dịch âm đạo có các tế bào biếu mô của âm đạo đã bong, có trực khuẩn Doderlein giúp cho sự chuyển glycogen thành acid lactic có tác dụng bảo vệ âm đạo.

Bài giảng u tuyến vú và thai nghén

Nang tuyến vú là một hình thái của loạn dưỡng nang tuyến vú, là do giãn các ống sữa tạo thành, kích thước của nang có thể từ vài milimet cho tới 1 - 2cm và nhiều nang.

Bài giảng u nang buồng trứng và thai nghén

Khi bị xoắn, triệu chứng như xoắn cuống nang của khối u buồng trứng ỏ ngoài thời kỳ thai nghén, gây nên hội chứng cấp cứu bụng ngoại khoa và phải xử trí cấp cứu.

Bài giảng ung thư buồng trứng và thai nghén

Ung thư buồng trứng đối và thai nghén hiếm gặp do những tổn thương tại buồng trứng không gây có thai được. Sự chẩn đoán sớm thường khó khăn. Bệnh chỉ được phát hiện khi mổ lấy thai hoặc có biến chứng phải mổ cấp cứu.

Bài giảng u xơ tử cung và thai nghén

Xoắn cuống nhân xơ: cũng có thể gặp trong những trường hợp u xơ dưới phúc mạc. Triệu chứng xoắn cuống nhân xơ giống như xoắn cuống của u nang buồng trứng.

Bài giảng ung thư tử cung, cổ tử cung và thai nghén

Ung thư thân tử cung bắt nguồn từ lốp cơ của tử cung nhưng cũng tác động đến môi trường buồng tử cung cũng như khi khối u phát triển sẽ chèn ép

Bài giảng chẩn đoán dị dạng trước sinh

Trong gia đình có người bị mắc bệnh di truyền, đặc biệt lưu ý các bệnh di truyền liên quan đến giới tính, bệnh lý chuyển hoá và một số tình trạng thiếu hụt miễn dịch di truyền.

Bài giảng sự dậy thì

Mặc dầu yếu tố quyết định chính tuổi dậy thì là di truyền, cũng còn có những yếu tố khác ảnh hưởng đến thời điểm bắt đầu dậy thì và sự phát triển dậy thì như địa dư nơi ở, sự tiếp xúc với ánh sáng, sức khoẻ chung, dinh dưỡng và yếu tố tâm lý.

Bài giảng triệt sản nam nữ

Phương pháp tránh thai bằng phẫu thuật có thể áp dụng cho nữ giới hoặc cho nam giới. Cho đến nay nói chung triệt sản vẫn được coi là phương pháp tránh thai vinh viễn, không hồi phục.

Bài giảng dụng cụ tử cung (vòng tránh thai)

Dụng cụ tử cung còn gọi là vòng tránh thai được sử dụng rộng rãi nhất ở nước ta. dụng cụ tử cung làm bằng chất dẻo, có chứa muối barium, vì vậy cản quang với tia X.

Bài giảng biện pháp kế hoạch hóa gia đình

Không giao hợp khi người phụ nữ có chất nhầy trong âm đạo, đưa hai ngón tay vào âm đạo thấy có chất nhầy ở giữa hai ngón tay cho đến 4 ngày sau khi hết chất nhầy ẩm ướt.

Bài giảng sử dụng thuốc trong thời kỳ có thai

Nguy cơ của thuốc là khác nhau, tuỳ theo giai đoạn thai nghén. Nguy cơ gây dị dạng, gây độc cho thai và gây ung thư là những nguy cơ chủ yếu trong 3 tháng đầu.

Bài giảng sử dụng Vaccin trong khi có thai

Đối với vaccin virus sống, người ta khuyên không dùng khi có thai, nhưng cũng chưa bao giờ thấy các vaccin này gây ra dị dạng thai kể cả dùng khi mới có thai. Do vậy nếu tình cờ đã dùng các loại vaccin này thì cũng không có chỉ định phá thai.

Bài giảng tia xạ và thai nghén

Giai đoạn sắp xếp tổ chức: giai đoạn này có thể kéo dài đến 12 tuần tính theo ngày đầu của kỳ kinh cuối. Đây là giai đoạn đầy kịch tính, thai vô cùng nhạy cảm với tia X

Bài giảng gây mê gây tê cho mổ lấy thai

Thai nghén làm cơ thể mẹ có những thay đổi quan trọng nhằm thích nghi với điều kiện sinh lý mới. Những thay đổi này liên quan đến các hormon, sự tiến triển của tử cung có thai và tăng nhu cầu của chuyển hoá.

Bài giảng phương pháp hỗ trợ sinh sản

Hỗ trợ sinh sản là một thuật ngữ nói chung bao gồm những kỹ thuật y học mới, được sử dụng trong điều trị vô sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hỗ trợ sinh sản là một trong những tiến bộ kỳ diệu của y học trong 30 năm trỏ lại đây.

Bài giảng bệnh lành tính của vú

Các bệnh về vú thường gặp trong phụ khoa phát hiện và khám chữa bệnh thường muộn. Nêu người phụ nữ tự phát hiện được và điều trị sớm thì kết quả tốt.

Bài giảng ung thư vú (Breast cancer)

Đặc biệt ung thư vú liên quan chặt chẽ với tiền sử gia đình: nguy cơ mắc bệnh ở những phụ nữ có mẹ bị ung thư vú trước thời kỳ mãn kinh cao hơn 9 lần so với thông thường.

Bài giảng dị dạng sinh dục

Sự biệt hoá cơ quan sinh dục củng là một phần biệt hoá của cơ quan tiêt niệu cho phép giải thích và phân loại các dị dạng sinh dục. Tuần thứ 3 - 17 thai nhi sau khi biệt hoá đường tiết niệu hoàn toàn sẽ bắt đầu biệt hoá đường sinh dục. Tính cả hai quá trình này có thể chia làm 4 giai đoạn:

Bài giảng lạc nội mạc tử cung

Lạc nội mạc tử cung là trường hợp khi có mặt tổ chức tuyến, đệm hay tổ chức giống nội mạc tử cung ở ngoài buồng tử cung. Hình ảnh lạc nội mạc tử cung rất đa dạng. Có thể ở trong phúc mạc hay ngoài phúc mạc.

Bài giảng loạn dưỡng âm hộ và ung thư trong biểu mô

Tỉ lệ carcinoma tại chỗ của âm hộ ngày một tăng lên và dần có khuynh hướng phát hiện trên những phụ nữ trẻ đặc biệt trong lứa tuôi sinh đẻ

Bài giảng ung thư âm hộ

Âm hộ và vùng bẹn bản chất tự nhiên ẩm ướt đó là điều kiện thuận lợi để hấp thu những chất ngoại lai qua da vùng âm hộ, mức độ hấp thu phụ thuộc vào tình trạng ẩm ướt.

Bài giảng Sarcoma tử cung

Sarcoma tử cung thì hiếm, chỉ chiếm 1-3% các trường hợp ung thư tử cung, tuy nhiên mức độ nguy hiêm và tái phát cao, thậm chí ngay cả khi bệnh mới ở giai đoạn đầu, chỉ giới hạn ở tử cung, khiến nó trở thành một trong số những bệnh ác tính trầm trọng nhất trong phụ khoa.

Chăm sóc trẻ nhẹ cân non tháng

Một thế kỷ trước đây, ngay cả ở châu Âu, trẻ nhẹ cân và thiếu tháng cũng không có cơ hội để sống, cái chết của trẻ thấp cân và đẻ non luôn là nỗi đau vô hạn đối với người mẹ và gia đình.

Nhiễm trùng da và niêm mạc sơ sinh

Nói chung hệ thống miễn dịch của trẻ đã hình thành từ tháng thứ hai bào thai, nhưng cho đến khi ra đời ngay đối vói trẻ đủ tháng thì hệ thống miễn dịch, các chức năng sinh học khác của trẻ vẫn còn chưa phát triển đầy đủ.

Nhiễm khuẩn rốn trẻ sơ sinh

Bình thường sau teo thành dây chằng tròn dưới gan, khi viêm ta thây nôi ro tuần hoàn bàng hệ trên rốn, kèm theo trướng bụng, gan lách to dê đưa tới nhiễm trùng máu, viêm phúc mạc, áp xe gan

Bài giảng uốn ván rốn

Uốn ván rốn là một bệnh nhiễm khuẩn nhiễm độc do trực khuẩn Clostridium tetani, gram (+) gây ra, là loại bệnh hay gặp ở các nước đang phát triển, có tỉ lệ tử vong cao (34-50%) tuỳ từng thông báo của từng nước.

Hội chứng vàng da trẻ sơ sinh

Vàng da là một triệu chứng của nhiều nguyên nhân khác nhau, vàng da do có sự gia tăng nồng độ bilirubin trong máu, da nhìn thấy màu vàng khi lượng bilirubin trên 2mg% ở người lớn và trên 7mg% ở trẻ sơ sinh.

Bài giảng bệnh vú lành tính

Ở phụ nữ trưởng thành kích thước và hình dạng bình thường của vú có thể thay đổi đáng kể. Khi đứng, núm vú ngang với khoảng gian sườn bốn, có thể thấy vú trải dài từ xương ức đến đường nách trước và vùng được gọi là đuôi nách.

Bài giảng các phương pháp đình chỉ thai nghén

Đình chỉ thai là một thủ thuật an toàn nếu được thực hiện trong điều kiện đảm bảo và do cán bộ y tế đủ trình độ đảm trách. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp đình chỉ thai nghén nên thực hiện ở các tuyến y tế có đủ điều kiện, nhằm giảm các tai biến có thể xảy ra.

Bài giảng chăm sóc trẻ sơ sinh

Đội ngũ nhân viên tham gia chăm sóc- hồi sức trẻ sơ sinh phải có mặt ở phòng sinh trước khi thai sổ, kiểm tra lại các trang thiết bị, dụng cụ để tiếp nhận trẻ sơ sinh và có thể hồi sức ngay khi cần.

Bài giảng đa ối (nhiều nước ối)

Túi ối được tạo ra khoảng ngày thứ 12 sau khi trứng thụ tinh. Trong quí đầu của thời kỳ thai nghén, nước ối có tính đẳng trương và tương tự như huyết tương của người mẹ. Trong quý hai và nửa sau của thời kỳ thai nghén dịch ối trở nên nhược trương.

Bài giảng đẻ non

Tất cả những thuốc này chỉ có thể kéo dài thời gian mang thai trong một khoảng thời gian hạn chế từ 2 đến 7 ngày, đây là khoảng thời gian để sử dụng steroid.

Bài giảng HIV AIDS và thai nghén

Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (Human Immunodeficiency Virus - HIV) gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (gọi tắt là hội chứng AIDS - Acquired Immuno Deficiency Syndrom) là một bệnh lây truyền.

Bài giảng vấn đề sức khỏe trong thời kỳ mãn kinh

Quanh tuổi từ 45 - 55, phụ nữ chuyển sang một giai đoạn chuyển tiếp của đời sống sinh sản - tuổi tắt dục và mãn kinh. Sự chuyển tiếp này là một phần trong quá trình có tuổi của một phụ nữ và thường diễn ra không có vấn đề.

Bài giảng nhiễm trùng tiết niệu và thai nghén

Nhiễm trùng đường tiết niệu là bệnh lý hay gặp ở người phụ nữ, đặc biệt xảy ra tần suất cao đối với các trường hợp mang thai. Đôi lúc nhiễm trùng đường tiết niệu xảy ra âm thầm, lặng lẽ không có triệu chứng rõ ràng.

Bài giảng nôn do thai nghén

Nguyên nhân gây nôn chưa rõ, nhưng người ta tin rằng nó có liên quan đến nồng độ hormon tăng cao trong 3 tháng đầu của thai nghén mà chủ yếu là nồng độ estrogen, progesteron và HCG.

Bài giảng phù phổi cấp trong sản khoa

Mức độ nặng hay nhẹ của bệnh tim trong đó điển hình nhất là hẹp van 2 lá với biến chứng chủ yếu của nó là phù phổi (70-90%). Hẹp càng khít bệnh càng nặng và biến chứng càng nhiều.

Bài giảng sa sinh dục

Sa sinh dục là hiện tượng tử cung sa xuống thấp trong âm đạo hoặc sa hẳn ra ngoài âm hộ, thường kèm theo sa thành trước âm đạo và bàng quang hoặc thành sau âm đạo và trực tràng.

Bài giảng sẩy thai

Gọi là sẩy thai khi thai bị tống xuất ra khỏi buồng tử cung, chấm dứt thai kỳ trước tuổi thai có thể sống được một cách độc lập bên ngoài tử cung (ngay cả khi có sự can thiệp của y tế).

Bài giảng sốc trong sản khoa

Đối với sốc xảy ra do tai biến khi đẻ như vỡ tử cung, rau tiền đạo, rau bong non nếu là con so, chuyển dạ kéo dài, sản phụ lo lắng, mệt mỏi

Bài giảng sốt rét và thai nghén

Sốt rét là một bệnh nguy hiểm đặc biệt là sốt rét ác tính, vì nó đe dọa tính mạng của sản phụ và thai nhi. Người ta nhận thấy tiên lượng thường xấu đối với người có thai con so bị bệnh sốt rét ác tính.

Bài giảng sức khỏe sinh sản vị thành niên

Tuổi vị thành niên là những người ở sau tuổi thiếu nhi và trước tuổi trưởng thành. Đây là giai đoạn chuyển tiếp nhưng là một giai đoạn khác biệt và quan trọng trong cuộc sống con người.

Bài giảng thai già tháng

Khoảng 3- 12% thai nghén vượt quá tuần 42, nhưng thực tế thì tỷ lệ thai già tháng không vượt quá 4% (do không nhớ ngày kinh cuối cùng chính xác, hoặc thời gian phóng noãn chậm).

Bài giảng thiếu máu và thai nghén

Thiếu máu trong thai nghén chiếm từ 10 - 15% thiếu máu nặng chiếm 1/5 trường hợp tổng số thiếu máu trong thai kỳ. Bệnh lý thiếu máu sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong mẹ và thai nhi (có thể suy thai, đẻ non...).

Bài giảng thiểu ối (ít nước ối)

Nguyên nhân dẫn tới thiểu ối bao gồm ối vỡ sớm, ối vỡ non, bất thường cấu trúc thai nhi, thai quá ngày sinh, thai kém phát triển trong tử cung... Tuy nhiên, có nhiều trường hợp thiểu ối  không xác định được nguyên nhân.

Bài giảng tổn thương lành tính cổ tử cung

Cổ tử cung có thể thay đổi hình thể tuỳ thuộc người phụ nữ đã có con hay chưa. Ở người chưa đẻ cổ tử cung thường tròn, ở người con rạ lỗ cổ tử cung có thể sẽ bè ra theo chiều ngang.

Bài giảng tư vấn đình chỉ thai nghén

Duy trì tư vấn bằng giao tiếp bằng lời và không lời một cách tích cực và hiệu quả. Luôn có thái độ nhẹ nhàng, cảm thông và động viên để tăng cường sự hợp tác của khách hàng khi tiến hành thủ thuật.

Bài giảng tử vong của bà mẹ và trẻ sơ sinh

Các biến chứng của thai nghén và quá trình sinh đẻ là những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và ảnh hưởng sức khoẻ nghiêm trọng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại các nước đang phát triển.

Bài giảng ung thư cổ tử cung

Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là khối u ác tính đứng hàng thứ hai sau ung thư vú, thường xảy ra ở ranh giới giữa biểu mô lát tầng và biểu mô trụ của cổ tử cung.

Bài giảng ung thư niêm mạc tử cung

Ung thư niêm mạc tử cung là các khối u phát triển từ niêm mạc tử cung, là một loại ung thư thường gặp ở người lớn tuổi. Có hơn 80% bệnh nhân ung thư niêm mạc tử cung gặp ở người mãn kinh, trong đó có khoảng 95% có nguồn gốc từ biểu mô tuyến của nội mạc tử cung.

Bài giảng ung thư vú

Ung thư vú là u tân sinh ác tính thường gặp ở phụ nữ tại các nước công nghiệp, tần suất 60 đến 70/100.000 dân/năm. Ở các nước đang phát triển, ung thư vú chiếm 30% ung thư phụ khoa, đứng hàng thứ hai sau ung thư cổ tử cung.

Bài giảng viêm âm đạo cổ tử cung

Khi âm đạo bị viêm nhiễm, chất dịch tiết ra nhiều, gây khó chịu làm cho người phụ nữ lo lắng, trong trường hợp này dù màu sắc như thế nào trắng hay vàng, có mùi hay không đều là bệnh lý.

Bài giảng viêm phần phụ

Viêm nhiễm đường sinh dục là một trong những bệnh phổ biến ở phụ nữ, nó có liên quan mật thiết với quan hệ tình dục, nhất là trong những trường hợp có nhiều bạn tình, ý thức vệ sinh  tình dục kém.

Bài giảng viêm ruột thừa khi mang thai

Chẩn đoán viêm ruột thừa trong lúc mang thai thường khó khăn hơn bình thường vì điểm đau không điển hình; đặc biệt nếu viêm ruột thừa xảy ra trong chuyển dạ.

Bài giảng vô sinh

Bình thường sau một năm chung sống khoảng 80 – 85% các cặp vợ chồng có thể có thai tự nhiên. Theo thống kê trên thế giới, tỷ lệ vô sinh chiếm khoảng 8 – 15 % các cặp vợ chồng.

Bài giảng nhiễm khuẩn hậu sản

Nhiễm khuẩn hậu sản là nhiễm khuẩn xảy ra ở sản phụ sau đẻ mà khởi điểm là từ đường sinh dục (Âm đạo, cổ tử cung, tử cung). Có rất nhiều loại vi khuẩn gây nhiễm khuẩn hậu sản: Tụ cầu, liên cầu, E. Coli, các vi khuẩn kị thí như Clostridium, Bacteroides.

Bài giảng chửa ngoài tử cung

Siêu âm: Không thấy hình ảnh của túi ối trong buồng tử cung, cạnh tử cung có thể thấy một vùng âm vang không đồng nhất, ranh giới rõ, kích thước thường nhỏ. Trong trường hợp rỉ máu thì siêu âm có thể thấy dịch ở cùng đồ Douglas.

Bài giảng u nguyên bào nuôi

Ung thư nguyên bào nuôi tần suất 1/40.000 phụ nữ có thai, gần 50% sau chửa trứng, 25% sau sẩy thai, 22% sau đẻ thường và sau đẻ thường 2-3%. Bệnh nguyên bào nuôi có tỉ lệ 1/1.200 thai nghén ở Mỹ và 1/120 thai nghén ở vùng Đông Nam Á.

Bài giảng chửa trứng

Chửa trứng là do sự phát triển bất thường của các gai rau, nguyên bào nuôi phát triển quá nhanh nên tổ chức liên kết bên trong gai rau cùng với các mạch máu không phát triển theo kịp.

Bài giảng nhiễm khuẩn đường sinh sản

Có thể gặp hình thái cấp và mãn tính, nhưng hình thái mạn tính hay gặp hơn cả, gây nhiều biến chứng (vô sinh, rối loạn kinh nguyệt, ung thư), chẩn đoán và điều trị gặp nhiều khó khăn.

Bài giảng rối loạn kinh nguyệt

Rối loạn kinh nguyệt là chỉ những biểu hiện bất thường về kinh nguyệt. Đó là những dấu hiệu, những triệu chứng của một hay nhiều bệnh khác nhau chứ rối loạn kinh nguyệt không phải là bệnh.

Bài giảng ngôi mông sản khoa

Ngôi mông là một ngôi bất thường. Là một ngôi có khả năng đẻ đường dưới nhưng dễ mắc đầu hậu vì vậy nếu không được chẩn đoán sớm, tiên lượng tốt và xử lý thích hợp thì nguy cơ cho mẹ và thai sẽ rất cao.

Bài giảng vỡ tử cung

Vỡ tử cung không hoàn toàn (còn gọi vỡ tử cung dưới phúc mạc): Tổn thương từ niêm mạc đến rách cơ tử cung nhưng phúc mạc còn nguyên, thường gặp vỡ ở đoạn dưới.

Bài giảng thai chết lưu

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra thai chết lưu và cũng có nhiều trường hợp thai chết lưu mà không tìm được nguyên nhân. Người ta cho rằng có từ 20 đến 50% số trường hợp thai chết lưu không tìm thấy nguyên nhân.

Bài giảng rau bong non

Cường độ cơn co tử cung bình thường, trương lực hơi tăng nhưng khó nhận thấy. Cuộc đẻ tiến triển bình thường, sau đẻ kiểm tra bánh rau: máu cục sau rau lõm vào bánh rau.

Bài giảng rau tiền đạo

Phần lớn bánh rau bám vào thân tử cung, chỉ một phần nhỏ bám vào đoạn dưới, không gây chảy máu, thường hay gây vỡ ối sớm. Đa số được chẩn đoán hồi cứu sau khi sổ rau.

Bài giảng các chỉ định mổ lấy thai

Nhóm nguyên nhân do thai: thai to (32,7%), suy thai (27,2%), ngôi mông (24,7%), ngôi khác (6,7%), song thai (4,7%), mở hết không lọt (4,0%). Trong ngôi mông, 75% số trường phải mổ lấy thai, 25% đẻ đường dưới.

Bài giảng các yếu tố tiên lượng cuộc đẻ

Yếu tố tiên lượng là các dấu hiệu được phát hiện khi hỏi sản phụ, khi thăm khám và trong quá trình theo dõi chuyển dạ giúp người thầy thuốc đánh giá dự đoán một cuộc chuyển dạ và quá trình đẻ.

Bài giảng hồi sức sơ sinh tại phòng đẻ

Các cử động hô hấp xảy ra ngay sau khi sinh, hiện nay vấn đề này vẫn còn chưa được hiểu biết đầy đủ. Người ta tranh cãi về vai trò của thiếu oxy máu, về sự toan hoá máu.

Bài giảng suy thai cấp tính trong chuyển dạ

Suy thai cấp tính là một tình trạng đe doạ sinh mạng thai, sức khoẻ thai và tương lai phát triển tinh thần, vận động của đứa trẻ sau này. Suy thai cấp tính là nguyên nhân của 1/3 số trường hợp tử vong chu sinh.

Bài giảng chảy máu trong chuyển dạ và sau đẻ

Chảy máu trong chuyển dạ và sau đẻ bao gồm tất cả các trường hợp sản phụ bị chảy máu âm đạo vì bất kỳ nguyên nhân gì khi chuyển dạ, trước và sau khi thai ra khỏi tử cung trong vòng 6 giờ đầu sau khi đẻ.

Bài giảng chảy máu trong 6 tháng đầu của thời kỳ thai nghén

Chảy máu âm đạo trong thời gian này là triệu chứng thường hay gặp, do nhiều nguyên nhân dẫn đến, đòi hỏi các bác sỹ phải chẩn đoán được nguyên nhân để kịp thời xử trí, vì có những trường hợp chúng ta phải can thiệp để giữ thai.

Bài giảng sản giật

Sau cơn co giật toàn thân, bệnh nhân thở vào được một hơi dài, tình trạng thiếu oxy tạm thời chấm dứt. Nhưng sau đó lại có những cơn kích động, nét mặt lại nhăn nhúm.

Bài giảng tăng huyết áp trong thời kỳ có thai và tiền sản giật

Chẩn đoán tiền sản giật nhẹ và tiền sản giật nặng: Dựa vào các triệu chứng đã trình bày trên đây. Cần chẩn đoán phân biệt với: Cao huyết áp mạn tính và thai nghén.

Bài giảng thai nghén có nguy cơ cao

Thông qua bệnh sử giúp các thầy thuốc phát hiện đ­ược các yếu tố nguy cơ và xử trí sớm đư­ợc các yếu tố nguy cơ. Việc khai thác bệnh sử một cách liên tục giúp cho thầy thuốc phát hiện đư­ợc những tình trạng bệnh tiến triển khi có thai mới bộc lộ ra.

Bài giảng song thai (thai đôi)

Trên siêu âm chúng ta nhìn thấy 1 bánh rau, 2 buồng ối mà vách ngăn 2 buồng ối mỏng, không thấy dấu hiệu Lambda. Đó là song thai 1 bánh rau, 2 buồng ối và là song thai 1 noãn.

Bài giảng đẻ khó do cơn co tử cung

Áp lực cơn co tử cung tính bằng mmHg hoặc bằng Kilo Pascal(KPa) (1mmHg = 0,133 KPa). Đơn vị Montevideo (UM) bằng tính của biên độ cơn co trung bình nhân với tần số cơn co (số cơn co trong 10 phút).

Bài giảng đẻ khó cơ giới

Phi lâm sàng phát hiện khung chậu không bình thường có thể làm siêu âm, nhưng đặc biệt là chụp Télé khung chậu, đặc biệt là chụp eo trên với một mặt phẳng có chia ô từng cm2 một.

Bài giảng dân số kế hoạch hóa gia đình

Dân số - kế hoạch hóa gia đình - Bảo vệ bà mẹ trẻ em có quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng đến nhau, là một phần trong vấn đề sức khỏe sinh sản. Làm tốt công tác về dân số kế hoạch hóa gia đình.

Bài giảng u xơ tử cung

Ở ngay khối u, niêm mạc tử cung và ống dẫn trứng nhất là đối với polyp thò ra ngoài cổ tử cung bị nhiễm khuẩn hoặc hoại tử: đau bụng, sốt, bạch cầu tăng, toàn thân suy sụp.

Bài giảng u nang buồng trứng

Đau vùng chậu, gây vô kinh hoặc muộn kinh dễ nhầm với chửa ngoài tử cung, có thể xoắn nang, vỡ nang gây chảy máu phải soi ổ bụng hoặc mở bụng để cầm máu.

Bài giảng vô khuẩn trong sản khoa

Diện rau bám sau khi bong rau là một cửa ngõ vô cùng rộng cho các mầm bệnh xâm nhập trực tiếp vào tuần hoàn của người mẹ gây nên hình thái nhiễm khuẩn.

Bài giảng chăm sóc và quản lý thai nghén

Tử vong mẹ phần lớn xảy ra trong tuần đầu sau khi sinh (60%), đặc biệt là 24 giờ đầu sau khi sinh mà nguyên nhân chảy máu là chiếm hàng đầu.

Bài giảng hậu sản thường

Khi có thai, các cơ quan sinh dục và vú phát triển dần, sau khi đẻ sẽ trở lại tình trạng bình thường như khi không có thai. Thời gian trở về bình thường của cơ quan sinh dục về mặt giải phẫu và sinh lý gọi là thời kỳ hậu sản.

Bài giảng sổ rau thường và hậu sản thường

Sổ rau là giai đoạn thứ 3 của cuộc chuyển dạ, tiếp theo sau giai đoạn mở cổ tử cung và giai đoạn sổ thai. Nếu 2 giai đoạn trước diễn ra bình thường thì tiên lượng của sản phụ lúc này phụ thuộc vào diễn biến của giai đoạn này.

Bài giảng sự chuyển dạ

Cho tới nay người ta chưa biết rõ ràng và đầy đủ những nguyên nhân phát sinh những cơn co chuyển dạ. Người ta đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải trình, có một số giả thuyết được chấp nhận.

Bài giảng cơ chế đẻ ngôi chỏm kiểu thế chẩm chậu trái trước

Ngôi chỏm, kiểu thế chẩm chậu trái trước gặp ở các bà mẹ có khung chậu bình thường, thành bụng còn chắc (đẻ ít), bộ phận sinh dục không có dị dạng, còn thai nhi, ối, rau cũng bình thường.

Bài giảng chẩn đoán ngôi thế kiểu thế

Thai được bao bọc bởi một khối lượng nước ối lớn. Thai nằm trong buồng tử cung theo tư thế  đầu cúi gập, lưng cong, chi trên gấp trước ngực, chi dưới gấp trước bụng.

Bài giảng chẩn đoán thai nghén

Nghén: Là sự thay đổi của người phụ nữ do tình trạng có thai gây nên. Nghén được biểu hiện: buồn nôn, nôn, tiết nước bọt, thay đổi về khứu giác, vị giác, tiết niệu, thần kinh và tâm lý.

Những thay đổi giải phẫu sinh lý của phụ nữ khi có thai

Sự tồn tại của thai nhi với những tuyến nội tiết hoạt động từ rất sớm bắt đầu từ tuần thứ 11; những tuyến này bao gồm tuyến yên, tuyến giáp trạng, thượng thận, tuỵ, và sinh dục.

Bài giảng tính chất thai nhi và phần phụ đủ tháng

Đầu thai nhi có hai thóp là thóp trước và thóp sau. Thóp trước có hình trám, nằm phía trước. Thóp sau hình hai cạnh của tam giác, giống hình chữ lam- đa () , nằm phía sau là điểm mốc của ngôi chỏm.

Bài giảng sự thụ thai, làm tổ và phát triển của trứng

Giới tính của thai được quyết định ngay khi thụ tinh. Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể giới tính Y thì sẽ phát triển thành thai trai. Ngược lại nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể giới tính X.

Bài giảng sinh lý kinh nguyệt

Trong những vòng kinh không phóng noãn, niêm mạc tử cung chỉ chịu tác dụng của estrogen, sẽ không có các xoang nối tiếp động tĩnh mạch mà chỉ vỡ các tiểu động mạch xoắn ốc.

Những nét cơ bản của môn sản phụ

Sản khoa là môn học về thai nghén, sự sinh đẻ và các bệnh lý có liên quan tới thai nghén và sinh đẻ. Thông thường sản khoa bao gồm 3 phần: sản thường, sản khó và sản bệnh lý.