Viêm da atopi và viêm da dị ứng tiếp xúc

2012-11-16 07:29 PM
Sự thay đổi về tổ chức học của da, trong viêm da atopi, và viêm da tiếp xúc, được quan sát thấy khoảng 4 giờ sau khi dị nguyên vào cơ thể.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Định nghĩa

Viêm da atopi và viêm da dị ứng  tiếp xúc là những biểu hiện tổn thương da trên một  bệnh nhân có cơ địa  dị ứng  đặc  trưng bởi những dấu  hiệu lâm sàng  của hiện tượng quá mẫn tức thì với sự có mặt của IgE hoặc hiện tượng quá mẫn muộn với sự tham gia của tế bào T đặc hiệu.

Phân loại

Tổn thương da theo cơ chế dị ứng được phân chia theo nhiều cách, tuy nhiên theo  nhiều  tác giả việc phân loại theo nguyên nhân ngoại sinh hoặc nội sinh được nhiều người công nhận:

Viêm da atopi là bệnh da có cơ địa dị ứng, khó xác định được nguyên nhân nhưng liên quan đến tuổi mắc bệnh của bệnh nhân.

Viêm da dị ứng tiếp xúc thường dễ phát hiện do có tác nhân bên ngoài rõ rệt. Tuy  nhiên cả hai  bệnh này đều có chung cơ chế tăng mẫn cảm nhanh hoặc chậm.

Cơ chế bệnh sinh

Viêm da atopi

Theo Gell và Coombs, phản ứng  dị ứng có sự tham gia của IgE là hiện tượng tăng mẫn cảm typ I, xảy ra nhanh, bản chất của  hiện tượng này  là sự hoạt hoá tế bào mast bởi việc hình thành các cầu nối của 2 phân tử IgE kề nhau trên bề mặt tế bào  mast làm thay đổi cấu trúc màng tế bào gây hiện tượng thoát bọng và giải phóng các hoá chất trung gian như histamin. Các yếu tố hoá ứng động, heparin và các protease gây ra một số biểu hiện như viêm da atopi. Tuy nhiên việc hoạt hoá các phospholipase A2 tại màng  tế bào mast sẽ hình thành acid arachidonic để hình thành các prostaglandin, thromboxan A2 và các leucotrien. Bản thân các sản phẩm này sẽ gây ra nhiều phản ứng dị ứng khác nhau trong đó có viêm da atopi cấp.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Đây là cơ chế dị ứng muộn. Dị nguyên tiếp xúc trực tiếp trên mặt da, chui qua da vào tổ chức dưới da nhờ sự gắn với tế bào Langerhans của tổ chức nội  bì. Chúng vận chuyển các thông tin về dị nguyên nhanh chóng di tản từ lớp thượng bì đến các hạch lympho vùng. Tại đây các thông tin về dị nguyên được truyền cho các tế bào lympho T ký ức. Từ các thông tin đặc hiệu này mà đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào được hình thành với sự sản xuất  rất nhiều lymphokin từ tế bào lympho T mẫn cảm.  Các  tế bào lympho T sẽ nhanh chóng di chuyển về vùng da có dị nguyên. Các  lymphokin từ tế bào lympho mẫn cảm sẽ kích thích, hoạt hoá, kết dính, hoá ứng động đối với các tế bào khác như bạch cầu đơn nhân trung tính di chuyển đến nơi có dị nguyên theo đường ống ngực rồi vào máu và cuối cùng đến tổ chức dưới da. Sự  thâm nhiễm các tế bào được thu hút từ mạch máu đến tổ chức dưới da đã tạo nên tổn thương tổ chức học điển hình của viêm da dị ứng tiếp xúc.

Tổ chức học vùng da tổn thương

Sự thay đổi về tổ chức học của da trong viêm da atopi và viêm da tiếp xúc được quan sát thấy khoảng 4 giờ sau khi dị nguyên vào cơ thể qua da hoặc qua niêm mạc. Hình ảnh nổi bật là thâm nhiễm tế bào viêm tại tổ chức da.

Viêm da atopi và viêm da dị ứng tiếp xúc đều có quá trình tiến triển lâm sàng qua 4 giai đoạn:

Giai đoạn đỏ da: ngứa nhiều, ban đỏ rải rác và phù lớp thượng bì.

Giai đoạn hình thành các bọng nước.

Giai đoạn rỉ nước và bội nhiễm gây ra tổn thương chốc lở.

Giai đoạn đóng vẩy: tiến triển lâu dài và hình thành mảng liken hoá.

Viêm da atopi

Tiêu chuẩn chẩn đoán

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo Hanifin và Rajka

Tiêu chuẩn chính: cần có đủ 3 trong 4 tiêu chuẩn sau đây:

Ngứa.

Hình thái và vị trí tổn thương điển hình:

Liken hoá tại các nếp gấp nhất là ở trẻ em.

Tổn thương ở mặt và mặt duỗi của chi.

Tiến triển mạn tính và tái phát.

Tiền sử gia đình và bản thân có cơ địa dị ứng.

Tiêu chuẩn phụ: Cần có tối thiểu 3 trong số các tiêu chuẩn sau:

Khô da.

Có vẩy, dầy sừng.

IgE toàn phần tăng cao.

Xảy ra ở tuổi nhỏ.

Có xu thế nhiễm trùng da.

Viêm da dị ứng  ở tay, chân.

Chàm hoá núm vú.

Viêm kết mạc tái phát.

Dấu hiệu dầy sừng hình nón.

Nhiễm sắc tố xung quanh mắt.

Đỏ da vùng mặt.

Vẩy phấn hồng.

Tổn thương mặt trước cổ.

Hay phản ứng  với len  dạ và các hoá chất.

Dị ứng thức ăn.

Các triệu chứng nặng lên khi xúc động.

Có dấu hiệu vạch da đồ.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo Williams

Tiêu chuẩn chính: Ngứa

Tiêu chuẩn phụ: Kèm thêm 3 triệu chứng trong các triệu chứng sau đây:

Tiền sử có bệnh lý da ở các nếp lằn da.

Có tiền sử bản thân bệnh hen  phế quản và viêm mũi dị ứng.

Khô da trong thời gian trước đó.

Có tổn thương chàm  hoá ở các nếp gấp.

Bệnh bắt đầu trước 2 tuổi.

Phương pháp chẩn đoán này đơn giản  hơn và dễ áp dụng.

Hình thái lâm sàng

Viêm da dị ứng ở trẻ sơ sinh,

Là biểu hiện đầu tiên trên một cơ địa dị ứng.  Chúng thường bắt đầu từ 3 tháng tuổi. Tuy  nhiên 38% các trường hợp bệnh bắt đầu từ trước 3 tháng tuổi và 85% các  trường hợp bệnh bắt đầu từ năm tuổi đầu tiên.

Tổn thương là các mảng đỏ, phù, giới hạn rõ, xen kẽ là các mụn nước nhỏ li ti. Các  bọng nước nhỏ này dễ vỡ, và sau đó đóng vảy. Hay bắt đầu ở mặt, các vùng gồ cao ở má, trán, cằm. Tổn thương tiến triển toàn thân, tập trung ở mặt duỗi  của chi. Đôi khi  có hình thái tròn như đồng xu, ranh giới rõ.

Ngứa nhiều gây rối loạn giấc ngủ của trẻ.

Tổn thương ở lứa  tuổi này hay kèm bội nhiễm da gây phản ứng toàn thân như sốt - hạch to đau ở ngoại vi.

Viêm da atopi ở trẻ em:

Sau 2 năm tuổi, các tổn thương có xu thế bán cấp và mạn tính, tổn thương không rầm rộ, tiến triển từ từ, tái phát.

Vị trí vẫn ở các nếp gấp như khoeo, khuỷu cổ tay, chân, mu bàn tay và các ngón. Đôi khi lan ra toàn thân.

Tổn thương mụn nước, vỡ ra, hình thành mảng khô, ngứa nhiều. Dấu hiệu khô da  trầm trọng hơn đôi khi phối hợp sừng hoá.

Viêm da atopi  tồn tại dai dẳng từ nhỏ  đến khi trưởng thành. Chiếm khoảng 10% trong dân số.

Tổn thương đa hình thái hơn. Ngoài các hình thái đã nêu ở trên, còn có các tổn thương đặc biệt như chốc, lở ở các vùng mặt cổ, chàm hoá ở tay, gan bàn chân. Hiện tượng liken hoá ở các nếp gấp chi cũng  phổ biến.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Là bệnh lý theo cơ chế dị ứng muộn có vai  trò tham gia của các lympho bào mẫn  cảm  gây ra phản ứng  viêm tại tổ chức dưới da  tiếp xúc với dị nguyên. Dị nguyên có vai trò như một hapten.

Tổn thương tổ chức học giống như trong viêm da atopi đã nói ở trên. Tuy nhiên, hiện tượng dày sừng lớp thượng bì xảy ra sớm hơn.

Hình thái lâm sàng của viêm da dị ứng tiếp xúc phụ thuộc vào từng loại dị nguyên, vị trí tiếp xúc với dị nguyên. Tổn thương có ranh giới rõ rệt với vùng da  lành, chỉ có ở vùng tiếp xúc với dị nguyên. Ban đầu là ngứa sau đỏ da, phù, xuất  hiện mụn nước rồi vỡ ra, rỉ nước vàng, khô và tạo mảng tại nơi có dị nguyên.

Nguyên nhân: thường do tiếp xúc với các đồ vật, sản  phẩm, đồ dùng hàng ngày

Một số phương pháp chẩn đoán đặc hiệu

Tuỳ bản chất của dị nguyên mà người ta có thể dùng các phương pháp sau để chẩn  đoán đặc hiệu tìm nguyên nhân trong viêm da atopi và viêm da dị ứng tiếp xúc.

Định lượng IgE toàn phần: Nồng độ IgE toàn phần thường tăng rất cao trong các  bệnh lý dị ứng cũng  như các  bệnh lý da dị ứng.

Test lẩy da (Prick test).

Phản ứng phân huỷ  tế bào mast hoặc tiêu bạch cầu đặc hiệu nhằm phát hiện kháng thể hoặc kháng nguyên đặc hiệu thông qua mức độ vỡ của các tế bào trên.

Việc xác định dị nguyên gây bệnh đặc biệt trong viêm da dị ứng do tiếp xúc người  ta sử dụng test áp. Đây là kỹ thuật đơn giản, dễ làm, an toàn và cho kết quả chính xác:  dị nguyên nghi ngờ được hoà trong vaselin, áp trên da trong một loại đĩa nhỏ. Sau  24 giờ – 48 giờ mở ra kiểm tra vùng đó, nếu dương  tính sẽ thấy trên da  tại vùng có dị nguyên đỏ, ngứa, sẩn phù, ranh giới rõ, có thể có mụn nước. Người  ta có thể đọc vào 48 giờ sau lần đọc thứ nhất có nghĩa là 96 giờ sau khi  tiếp xúc dị nguyên. Hệ thống đĩa đựng dị nguyên áp da được dùng rộng rãi trên thế giới giúp chúng ta có thể làm nhiều dị nguyên một lúc.

Tiến triển

Trong thời gian đầu tiến triển thành từng đợt, có cơn cấp và cũng có đợt thuyên  giảm. Các yếu tố tác động và thúc đẩy đợt tái phát đôi khi dễ phát hiện như nhiễm trùng mũi họng, viêm phế quản - phổi, bội nhiễm vi khuẩn, virus, tiêm phòng, trạng  thái stress, thời tiết, thức ăn,...ảnh hưởng nhiều đến thúc đẩy tái phát viêm da dị ứng. Trong thời gian sau:  phần lớn là tiến triển mạn tính.

Tuy nhiên 1/4 số bệnh nhân sơ sinh có thuyên giảm bắt đầu từ 3 tuổi đến 5 tuổi, chiếm 50% trong một số nghiên cứu. Tỷ lệ trẻ em tồn tại viêm da  atopi đến tuổi trưởng thành khoảng 20% đến 25%. Mức độ rầm rộ và diện tích tổn thương vào đợt tái phát thường tỷ lệ với mức độ nặng khi  bắt đầu bị bệnh.

Yếu tố tiên lượng xấu đối với viêm da atopi ở người  lớn, đó là:

Bệnh bắt đầu sớm (trước 1 năm tuổi).

Mức độ tổn thương da sau khi sinh (1 tháng tuổi đầu tiên).

Tiền sử bản thân và gia đình về dị ứng.

Sự phối hợp với các bệnh dị ứng khác như hen phế quản, viêm mũi dị ứng.

Bội nhiễm da và chất lượng chăm sóc da.

Các yếu tố này sẽ làm cho tình trạng bệnh nặng thêm hoặc hạn chế hiệu quả điều trị.

Biến chứng của viêm da atopi và viêm da dị ứng tiếp xúc 

Nhiễm vi khuẩn

Nhiễm tụ cầu vàng là rất hay gặp tại các vùng da tổn thương bị vỡ, rỉ nước. Việc xâm  nhập dễ dàng của vi khuẩn qua da là do sự thay đổi thành phần lipid trên bề mặt da và tăng sự kết dính của vi khuẩn với lớp thượng bì.

Dấu hiệu lâm sàng thể hiện phản ứng viêm rầm rộ trên da, tấy đỏ, đau, mụn nước có dịch đục, mủ. Hạch ngoại vi to và đau. Có thể có sốt.

Nhiễm virus

Tổn thương gồm nhiều bọng nước, đau, rát, dịch trong hoặc đục, có nhiều chỗ hoại tử.

Các biến chứng này làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ do mức độ nặng của  tổn thương, các bệnh lý phối hợp, chế độ điều trị thuốc toàn thân hoặc tại chỗ không kiểm soát tốt, ngứa nhiều, mất ngủ và thiếu vitamin D.

Phối hợp với một số bệnh lý khác

Hen, viêm mũi dị ứng... cùng phát triển trên một cơ địa dị ứng như các bệnh lý viêm da atopi hoặc viêm da dị ứng tiếp xúc. Hen xuất  hiện muộn hơn viêm da dị ứng  khoảng từ 3-7 năm. Theo một số nghiên cứu thì 30% số  bệnh nhân có viêm da dị ứng  có kèm theo hen. Nguy cơ có cơn khó  thở nặng ở người viêm da atopi hay  viêm da dị ứng  tiếp xúc là 50%.

Dị ứng  thức ăn, dị ứng thuốc hay gặp ở trẻ em có viêm da atopi. Các tổn thương biểu hiện ở da như mày đay, phù  Quincke cũng rất hay gặp.

Điều trị

Chống viêm

Corticoid tại chỗ (trừ các tổn thương có bội nhiễm) cho hiệu quả điều trị tốt trong nhiều trường hợp, an toàn và không có tai biến toàn thân cho bệnh nhân. Liều điều trị tuỳ vào mức độ tổn thương, mật độ tổn thương của mỗi đợt tái phát. Mục đích của  điều trị tại chỗ là bảo vệ và hàn gắn hàng rào da bảo vệ cơ thể. Đối với trẻ nhỏ, việc dùng corticoid tại chỗ có liều cao sẽ ảnh hưởng đến tuyến thượng thận và sự phát triển của trẻ.

Dạng mỡ corticoid (điều trị tốt trong các thể dày sừng nặng) như Diflucortolon, Diprosalic, Betametason, Dermovat... bôi 1 đến 2 lần/24 giờ. Không dùng trên mặt vì gây teo da, sạm da khó phục  hồi.

Chống nhiễm khuẩn

Chăm sóc da sạch bằng các dung dịch sát trùng tại chỗ Hexamidin, Cytéal (1 thìa súp  pha trong 5 lít nước dùng rửa những vùng tổn thương. Tắm nước khoáng, nóng là phương pháp được khuyên dùng.

Kháng sinh toàn thân nếu bội nhiễm nặng (nhóm Macrolid hay được chỉ định vì ít gây phản ứng dị ứng).

Điều trị khô da

Đây là giai đoạn điều trị cần thiết. Khô da làm tăng tình trạng ngứa, nứt nẻ da sẽ tạo lối  vào cho vi khuẩn cũng như dị nguyên. Bền vững lớp mỡ dưới da sẽ giữ nước và hạn chế tác động từ bên ngoài.

Sử dụng các dung dịch làm mềm da giầu chất béo như dầu tắm Dermagor, Balnéum.

Sau khi làm sạch da có thể bôi các thuốc giàu chất lipid như mỡ Atonyl…

Điều trị đều đặn hàng ngày khi có đợt cấp cũng như khi ổn định sẽ phục hồi  và cải thiện cấu trúc da.

Điều trị khác

Các thuốc kháng histamin được sử dụng nhiều có tác dụng giảm phản ứng dị ứng và giảm ngứa giúp cải thiện tình trạng toàn thân.

Điều trị thể nặng

Một số thể  viêm da atopi trở nên nặng và kháng điều  trị. Cần lưu ý chẩn đoán phân biệt với một số tổn thương khác như suy giảm miễn dịch và một số bệnh lý rối loạn chuyển hoá khác.

Ciclosporin: dùng đường uống với liều bắt đầu 2-5mg/kg/24h. Sau đó giảm liều dần, thường dùng điều trị cho người lớn.

Phòng bệnh

Giáo dục cho bệnh nhân, cha mẹ bệnh nhân về cơ chế, các hình thái tổn thương, mức độ, nguyên nhân gây bệnh, quá trình tiến triển mạn tính, sự phối  hợp có thể có với một số bệnh khác, theo dõi và kiên trì điều trị của bệnh nhân.

Kết quả test áp, test lẩy da và kết quả chẩn đoán trong phòng thí nghiệm sẽ là những thông tin cần cho bệnh nhân biết.

Thông báo danh sách một số sản phẩm, dị nguyên thường gây bệnh để bệnh nhân biết cách phòng tránh tiếp xúc.

Người có viêm da dị ứng tiếp xúc cần được theo dõi và quản lý để phòng tránh tiếp xúc lại bằng mọi cách nhất là tại nơi làm việc. Nếu không được thì cần sử dụng các  biện pháp bảo hộ lao động để hạn chế đến mức thấp nhất sự tiếp xúc với dị nguyên.

Phát hiện và điều trị các bệnh dị ứng kèm theo như hen, viêm mũi dị ứng và điều trị các ổ nhiễm trùng về răng, tai mũi  họng

Bài viết cùng chuyên mục

Bài giảng hen phế quản (miễn dịch lâm sàng)

Các thuốc phối hợp trong điều trị hen, cường beta 2 tác dụng kéo dài, corticoid khí dung, được sử dụng trong phác đồ 4 bậc theo GINA.

Bài giảng dị ứng thuốc

Những biểu hiện lâm sàng, của dị ứng thuốc rất phong phú, và đa dạng, các biểu hiện này có thể xuất hiện toàn thân, hoặc từng hệ cơ quan.

Bài giảng sốc phản vệ

Ngưng kết tiểu cầu, kích thích tiểu cầu giải phóng histamin và các mediator khác, làm tăng tính thấm thành mạch, co thắt cơ trơn và phế quản.

Mày đay và phù quincke

Bụi nhà, bụi bông, len, bụi thư viện, bụi kho, các loại phấn hoa, nấm mốc, biểu bì lông súc vật, cũng là những tác nhân gây mày đay phù Quincke.

Bệnh học dị ứng thức ăn

Vấn đề quan trọng là cần phải phân biệt với các phản ứng dị ứng giả, không dung nạp thức ăn, các phản ứng bất lợi do thức ăn và ngộ độc thức ăn.

Bệnh viêm mao mạch dị ứng

Lồng ruột cấp, và thường ở vị trí hồi hồi tràng là biến chứng trầm trọng nhất của tổn thương đường tiêu hoá có thể quan sát thấy.

Bệnh lupus ban đỏ hệ thống

Thường sốt nhẹ, nhưng cũng có trường hợp sốt cao, sốt kéo dài không rõ nguyên nhân, kèm theo các triệu chứng toàn thân như gày sút, mệt mỏi, kém ăn.

Bệnh học xơ cứng bì

Tổn thương da khu trú ở đầu ngón, từ ngón tay lên đến cổ tay, hoặc từ ngón chân đến đầu gối, đôi khi cứng da khu trú ở vùng dưới xương đòn.