Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

2012-11-25 12:19 PM

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Lịch sử viêm phong

Nhiều tài liệu cổ xưa đã đề cập đến viêm phong, như trong bộ sách Ấn Độ Sushruta Samhita (khoảng 600 năm trước CN) (viêm phong được gọi là Kushta) hoặc trong bộ sách Y học Trung Quốc Su Ven (viêm phong được gọi là laifon). Hippocrate và Aristote cũng nói đến những thể bệnh giống như phong. Một thầy thuốc người Anh thuộc thời Trung đại, đã nói đến tính chất truyền nhiễm và 4 dạng bệnh (dạng mặt sư tử, dạng rụng tóc hói đầu, dạng chân voi và dạng hủy hoại mô cụt chi). Vào những năm 544 - 583 tại nhiều thành phố Châu Âu, đã có những sắc lệnh cách li người bệnh phong và cấm họ đi lại tự do. Năm 1346 thành phố London quy định cấm bệnh nhân phong vào các
đường phố. Tới năm 1388, Paris cũng có quyết định tương tự. Năm 1546, Fracastoro (1483 -1553), một thầy thuốc người Italia (thường được coi là người sáng lập môn truyền nhiễm học) đã nhấn mạnh rằng bệnh phong lan truyền do những "động vật cực kì nhỏ bé " xuất nguồn từ người ốm.

Những nghiên cứu khoa học về bệnh phong bắt đầu từ Danielsen(1847) Hansen (1873), Virchow, Klingsmuler, Jadassohn và Jeanselme. Năm 1916 Mitsuda phát hiện phản ứng miễn nhiễm học. Năm 1941 Faget sử dụng sulfone điều trị bệnh có kết quả tốt và làm thay đổi tiên lượng.

Dịch tễ học viêm phong

Vào thế kỉ 14, ở Châu Âu có khoảng 2-3 vạn bệnh nhân viêm phong. Vào những năm đầu thập kỉ 80, thuộc thế kỉ 20, trên thế giới có khoảng 11,5 triệu người mắc bệnh phong ở các vùng địa dư sau: 4,5 triệu (Đông Nam Châu Á), 4 triệu (Châu Phi), 2,5 triệu (Ấn Độ và Madagascar) số còn lại rải rác ở những vùng khác như: 400.000 người bệnh (Châu Mỹ) 50.000 (Châu Âu), và 30.000 (Châu Đại Dương). Tại Việt Nam có khoảng 15 vạn người bệnh phong.

Chỉ số phong trên 1.000 dân là: 20 Châu Phi (nghĩa là 1/50 người dân mắc bệnh phong), 2,5 (Thái Lan), 1,5 (Việt Nam), 1,3 (Braxin) và 1,2 (Ấn Độ). Chỉ số phong u (tỉ lệ số lượng phong u trên số lượng người bệnh phong) tại một số nước là: 60% (Mêhicô), 35% (Miến Điện), 30% (Thái Lan) và 10% (châu Phi đen và Ấn Độ).

Bệnh phong thực nghiệm

Năm 1873 Gerhard Armauer Hansen (1841 - 1913), thầy thuốc người Na Uy, đã phát hiện ra vi khuẩn gây bệnh phong nhưng phải tới Neisser (1855 - 1916) mới khẳng định được tính chất sinh học qua việc nhuộm vi khuẩn theo phương pháp Koch. Nhiều nhà khoa học đã tự tiêm chủng vi khuẩn phong để thử gây bệnh thực nghiệm trên người như: Danielsen (1833 - 1858), ở Na Uy và Profeta (1828 - 1875) ở Italia nhưng đều không có kết quả. Năm 1884 tại Hawaii, Nouritz đã tiêm chủng vào 15 người dân bản xứ và Arning tiêm cho một người tử tù là Keanu. Tất cả các trường hợp đó đều cho kết quả âm tính trừ một trường hợp dương tính ở Keanu. Tuy nhiên đã không thể kết luận được vì trong gia đình kẻ tử tù đã có người bị bệnh phong, như vậy rất có thể Keanu đã mang bệnh từ lâu trước khi thử nghiệm. Một số tác giả cũng nêu nhiều trường hợp mắc bệnh phong do tai nạn và cũng có thể coi như mang bệnh thực nghiệm: (1) Marchoux thông báo một sinh viên nội trú ở Paris bị thương ở tay trong khi làm sinh thiết một bệnh nhân phong u, 8 năm sau đó anh thanh niên mang bệnh phong (được chẩn đoán xác định qua giải phẫu bệnh và vi khuẩn học) (2) Porrit và Olsen thông báo trường hợp hai lính thủy Hoa Kỳ mắc tổn thương phong ở cẳng tay, do trước đó hai năm đã có làm xăm hình trên da. (3) Mirauda thông báo trường hợp một trẻ em được tiêm bắp 5 ml máu mẹ, hai tháng sau mới phát hiện người mẹ có tổn thương phong u và hai năm sau đứa bé cũng có tổn thương phong ở nơi tiêm.

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R (đã được cắt bỏ tuyến ức và được chiếu tia xạ với liều 900 đơn vị R). Năm 1971 Storrs và Kicheumer gây được tình trạng nhiễm khuẩn toàn thân (tương tự như viêm phong u) khi tiêm trực khuẩn Hansen vào chuột Tatu armadillo và nhận thấy 40% các chuột có nhiễm phong lan tỏa. Một nhà khoa học người Nhật là Ico cũng gây được nhiễm phong lan tỏa ở hai loài chuột đã cắt bỏ tuyến ức (gọi là chuột tràn và chuột trụi lông). Gần đây nhất việc gây bệnh phong thực nghiệm đã được thực hiện có kết quả ở loài Tatu armadillo thuộc Nam Mỹ.

Đặc điểm của vi khuẩn phong

Vi khuẩn Hansen có tên gọi là Mycobacterium leprae, hình que thẳng hoặc hơi cong, hai đầu tròn, dài 5 - 8 micromét, rộng 0,2 - 0,5 micromét, giống trực khuẩn lao vì cũng kháng cồn, kháng acid và nhuộm màu đỏ, thường tập họp thành đám tròn (globi) hoặc thành bó que song song với nhau hiện diện ở bên trong và bên ngoài tế bào. Đây là loại vi khuẩn kí sinh trong tế bào, phát triển nhân lên chậm chạp, có khoảng cách giữa hai lần phân chia là 12 ngày (đôi khi tới 25 ngày) (so sánh với khoảng cách phân chia của trực khuẩn lao là 20 giờ, của xoắn khuẩn giang mai là 30 giờ và Escherichia coli là 20 phút), vì vậy cần một thời gian rất dài mới phân chia đủ số lượng vi khuẩn cần thiết để gây bệnh. Thời kỳ ủ bệnh thường âm thầm, có thể ngắn (vài ba tháng) nhưng thường rất dài (mười năm) và trung bình là vài năm (3 - 5 năm). Trực khuẩn có thể sống bên ngoài cơ thể, từ 1 - 2 ngày, có khi tới cả tuần lễ, ở nhiệt độ 20 độ trong bóng râm mát, với độ ẩm 35 - 45%. Cần chú ý là hình thái trực khuẩn có thể thay đổi tùy thuộc: (a) tiến triển lâm sàng của bệnh, (b) sức đề kháng của người bệnh, (c) sự đáp ứng điều trị.

Việc nuôi cấy vi khuẩn trên môi trường vẫn còn khó khăn: năm 1963, Deville thực hiện cho vi khuẩn nhân lên ở bên trong các tế bào riêng lẻ của loại sarcom Kaposi, năm 1967 Jadin cho vi khuẩn nhân lên ở các tế bào phong u lấy từ hạch và nuôi cấy ở môi trường Hans Parker 37.

Đường lây truyền của trực khuẩn phong

Trực khuẩn lây truyền theo đường trực tiếp qua da, niêm mạc (ở những tổn thương do sước rách, tiêm chủng, xâm mình....). Ở người bệnh, niêm dịch mũi là nơi chứa nhiều trực khuẩn: bệnh nhân phong u (thể L) và phong giáp biên (thể B) có niêm dịch chế tiết trong 24 giờ chứa khoảng một triệu đến 1 tỷ trực khuẩn. Còn có thể thấy vi khuẩn ở niêm dịch họng, miệng, thanh quản, sữa, tinh dịch, nước tiểu, phân, nhưng ít có khả năng lây truyền bệnh. Khi người bệnh ho, khạc nhổ hoặc nói chuyện trong 10 phút, có thể làm bắn ra những giọt nước chứa tới 200.000 trực khuẩn, tới một khoảng cách xa 1,2 mét. Tuy nhiên việc lây truyền theo đường hô hấp rất khó: trong thử nghiệm trên các súc vật thở hít không khí có ô nhiễm trực khuẩn phong, chỉ có 30% tổng số mắc bệnh.

Viêm phong không phải là một bệnh di truyền, tuy sự hiện diện của trực khuẩn trong nhau thai và dây rốn có thể làm thai nhi bị nhiễm khuẩn.

Nguy cơ mắc bệnh phong tùy thuộc vào nhiều yếu tố:

(1) Thể bệnh. Đối với người không tiếp xúc với bệnh phong, nếu nguy cơ mắc bệnh là 1, thì nguy cơ đó sẽ trở thành 2 nếu tiếp xúc thể bệnh T và là 8 -10 nếu tiếp xúc với thể bệnh L.

(2) Tiếp cận thân mật trực tiếp: tỷ lệ lây truyền giữa vợ chồng (có một người mang bệnh) là 3-6%.

(3) Tuổi: trẻ em bệnh dưới 15 tuổi dễ lây bệnh hơn người lớn.

(4) Giới: nam mắc bệnh nhiều hơn nữ, với tỷ số 2/1. Chỉ số phong u (số lượng phong u trong 100.000 dân) la 5,1 ở giới nam và 2,4 ở giới nữ.

(5) Bệnh dễ lây truyền ở những vùng nhiệt đới ẩm, nhiều mưa.

(6) Mật độ dân cư : bệnh dễ lan rộng và có tỷ lệ cao ở những nơi tập trung đông dân.

(7) Tình trạng vệ sinh thấp kém là điều kiện thuận lợi cho bệnh lan truyền.

Phản ứng Mitsuda

Phản ứng được dùng để xác định phân biệt các thể bệnh phong. Năm 1919, một thầy thuốc người Nhật, Mitsuda, tìm ra nghiệm pháp để phân loại các thể viêm phong. Ông dùng 1/10 mililít lepromin (chất chiết xuất từ u phong và đã được khử trùng) tiêm trong bì trên da người bệnh phong. Sau 3-4 tuần lễ, ở nơi tiêm chủng, thấy nổi cục quầng đỏ, rộng 5 - 10 mililmet, tồn tại khá lâu, đó là phản ứng Mitsuda dương tính, biểu hiện cơ thể người bệnh có miễn nhiễm cao đối với bệnh phong.

Các hình thái tổn thương phong

Tổn thương phong có những hình thái khác nhau tùy thuộc các thể bệnh. Có thể phân biệt 4 thể phong như sau:

Phong u (kí hiệu LL)

Là thể phong nặng, chứa nhiều vi khuẩn, rất lây, thường gặp ở 20 - 30% tổng số bệnh nhân phong. Biểu hiện dưới dạng những dát (macula) với số lượng nhiều, nhỏ bằng hạt kê, hạt đậu, nhô cao, bờ không rõ, màu đồng hoặc hồng ban, lan tỏa khắp người hoặc đối xứng ở mặt, má, bờ tai, khe cánh mũi, gáy, cằm, ngực, lưng, chi, đùi, mông, cẳng chân. Các dát có thể dính nhau tạo thành cục, mảng, u phong, rõ nhất ở mặt làm mặt sưng phù, hồng đỏ, có vẻ khỏe mạnh, (gọi là thể phong tốt đẹp: lepra bonita) hoặc làm rụng lông mày. Các dây thần kinh ngoại vi (dây trụ, dây quay, dây hông to), có thể bị viêm sưng to, gây rối loạn cảm giác, vận động và dinh dưỡng mô (teo cơ, loét da ...).

Ở thể phong u, trực khuẩn Hansen rất nhiều, có thể tràn ngập vào máu, dịch limphô và lan tỏa khắp cơ thể, gây tổn thương ở nhiều tạng khác nhau (hạch, tinh hoàn, gan, thận, thượng thận, phổi, hệ thần kinh trung ương ...).

Tổn thương vi thể của phong u gồm:

(1) lớp thượng bì teo đét rõ rệt, không còn thấy các mào thượng bì, hàng tế bào đáy giống như một đường thẳng. Ngay dưới thượng bì, có một khoảng trống vắng, không có tế bào viêm, được gọi là viền sáng Unna.

(2) ở mô liên kết, có thấm nhập nhiều tế bào viêm mãn và tế bao phong lan tỏa. Tế bào phong xuất nguồn từ mô bào và có nhiều dạng như: (i) tế bào Virchow, là đại thực bào chứa trực khuẩn Hansen (ii) bọt bào, là đại thực bào chứa trực khuẩn Hansen và bào tương đã thoái hóa, tạo nên những khoang bào (iii) thoái bào, là mô bào và đại thực bào đã thoái triển. Khi nhuộm theo phương pháp Ziehl-Neilsen thấy nhiều trực khuẩn phong tập hợp thành glôbi (là những đám tròn, đường kính 5 - 100 micrômet, hiện diện ở bên trong hoặc bên ngoài tế bào).

Bệnh nhân phong u có phản ứng Mitsuda âm tính, chứng tỏ cơ thể không có miễn nhiễm, không còn sức đề kháng đối với vi khuẩn.

Phong củ (kí hiệu TT)

Là thể phong nhẹ, chứa ít vi khuẩn, ít lây, chiếm tỷ lệ 50 - 60% tổng số người bệnh phong. Bệnh biểu hiện dưới dạng những mảng viêm phong (leprid), những dát lớn hoặc nhỏ, không đối xứng, thiểu sắc hoặc màu hồng, thiểu cảm hoặc vô cảm (với nóng, đau, xúc giác), có vị trí ở mặt, chi, thân.

Tổn thương vi thể của phong củ gồm (1) lớp thượng bì teo đét nhẹ hoặc không teo đét (2) ở mô liên kết bì, thấy có nhiều nang phong, hiện diện gần các phần phụ của da (bao lông, tuyến mồ hôi...) gồm nhiều đại bào, thoái bào, limphô bào, sợi bào. Nang phong giống nang lao nhưng không bao giờ có chất bã đậu.

Tổn thương dây thần kinh rất rõ rệt, xảy ra ở mô liên kết của nội mạc thần kinh, ảnh hưởng đến ngoại mạc thần kinh và kèm tổn thương ở sợi trục thần kinh và vỏ bao thần kinh.

Ở bệnh nhân phong củ, phản ứng Mitsuda dương tính rõ rệt, chứng tỏ cơ thể có miễn nhiễm cao, sức đề kháng mạnh đối với vi khuẩn.

Phong bất định (ký hiệu I)

Là thể bệnh không có những đặc điểm rõ rệt về nhiều mặt (lâm sàng, miễn nhiễm học và giải  phẫu bệnh...), nghĩa là có thể: (i) chỉ là một dạng viêm bì không đặc hiệu hoặc (ii) là dạng lâm sàng thoáng qua và khởi đầu của viêm phong để sẽ chuyển thành thể phong củ hoặc phong u. Phong bất định biểu hiện dưới dạng những vết dát, thiểu sắc, tăng sắc, vô sắc màu hồng ban hoặc màu đồng, vô cảm hoặc thiểu cảm. Tổn thương vi thể ở da giống như một viêm bì không đặc hiệu gồm nhiều limphô bào, mô bào thấm nhập lan tỏa hoặc vây quanh các phần phụ da.

Ở thể phong bất định, trực khuẩn thường âm tính hoặc có ít, rời rạc. Phản ứng Mitsuda thường không rõ rệt hoặc âm tính (khi bệnh chuyển sang thể phong u, phong giáp biên) hoặc dương tính (khi bệnh chuyển sang thể phong củ).

Phong giáp biên (kí hiệu BB)

Là thể phong đang chuyển dạng và trung gian giữa thể phong u và thể phong củ. Biểu hiện dưới dạng những dát, sẩn, kích thước khá lớn, kèm những tổn thương vệ tinh, nhỏ ở vùng kế cận. Làm sinh thiết da, thấy có tổn thương nhị dạng, bao gồm các vùng thấm nhập viêm phong lan tỏa (giống như phong u) xen kẽ với những nang phong (giống như phong củ). Tùy thuộc kết quả điều trị, sức đề kháng của người bệnh, phong giáp biên có thể chuyển thành phong u (dạng phong cận u BL) hoặc thành phong củ (qua dạng phong cận củ BT). Trong phong giáp biên, thường thấy có trực khuẩn họp thành đám nhỏ, ít thành glôbi. Phản ứng Mitsuda thay đổi tùy thuộc hướng tiến triển của bệnh.

Ngoài 4 thể phong (kể trên ) còn có loại viêm phong đã điều trị với những tổn thương không đặc hiệu dưới dạng dải, gồm nhiều tế bào viêm và thoái bào hiện diện rải rác trong mô bì. Có thể tóm tắt các thể bệnh phong trong sơ đồ dưới đây:

Nhưng tổn thương khác (ngoài da) của viêm phong

Viêm dây thần kinh

Trực khuẩn Hansen có ái tính cao với các sợi thần kinh, đặc biệt có thể tồn tại lâu dài trong tế bào Schwann nhờ bản chất lipid của tế bào này che chở bảo vệ. Tế bào Schwann có đời sống dài hàng năm còn mô bào chỉ có thể tồn tại vài ngày.

Trong bệnh phong, tổn thương thần kinh có thể xảy ra ở (i) sợi thần kinh bì da, gây những rối loạn chức năng (khi 30% tổng số các sợi cảm giác bị ảnh hưởng (ii) thân thần kinh ở vùng đầu cổ (dây thần kinh mặt, dây thần kinh trên hố mắt), ở chi trên (dây thần kinh trụ, dây thần kinh giữa vùng cổ tay, cẳng tay, dây thần kinh quay ở vùng hõm thuốc lào) ở chi dưới (dây thần kinh hông khoeo ngoài, dây thần kinh chầy sau).

Viêm dây thần kinh gây hậu quả sau (1) vô cảm (do thoái hóa toàn bộ các sợi thần kinh (2) đau (do chèn ép vì dây thần kinh bị sưng to, phì đại), liên tục hoặc từng đợt cấp tính (3) rối loạn vận động (làm liệt nửa mặt, mắt không nhắm kín, giống như mắt thỏ) tạo nên bàn tay kiểu móng vuốt, ngón chân co quắp, liệt dây thần kinh mặt làm giác mạc trở nên vô cảm, dễ bị viêm rồi mù mắt (4) rối loạn dinh dưỡng ở da (gây loét da, phù nề chi dưới kiểu chân voi, loét lỗ đáo lòng bàn chân ...).

Tổn thương xương

Trực khuẩn Hansen xâm nhập vào xương xốp, vùng đầu xương các xương nhỏ của chi (đặc biệt rõ rệt ở xương tay) gây nhiều ổ tiêu xương, hủy xương, có thể lan rộng đến khớp, dẫn đến biến dạng và cụt đầu chi.

Tổn thương hạch limphô

Trực khuẩn Hansen lan rộng theo mạch limphô đến các hạch, gây viêm hạch sưng to, (vài mlilimét đến vài cm), không đau, không kèm viêm quanh hạch (điểm khác biệt với lao hạch). Tổn thương rõ nhất ở hạch bẹn (90% các trường hợp viêm hạch quanh ròng rọc, 20% có dính vào dây thần kinh trụ), hạch cổ (15%), hạch nách (10%). Trong thể phong u, mô hạch có tăng sản trung tâm mầm, giàu limphô bào B, nhiều tương bào, tế bào phong chứa nhiều glôbi. Ở các mạch limphô, có thể thấy trực khuẩn ở lớp nội mạc, lớp áo giữa và áo ngoài của mạch.

Tổn thương nhãn cầu

Thấy trong 30-70% tổng số bệnh nhân phong, biểu hiện dưới dạng viêm giác mạc, viêm củng mạc, viêm thể mi-mống mắt. Tổn thương có thể do vi khuẩn xâm nhập trực tiếp vào nhãn cầu (giống như ở da) hoặc do biến chứng của liệt dây thần kinh mặt, dây tam thoa hoặc do rối loạn dinh dưỡng.

Tổn thương niêm mạc đường hô hấp trên

Xảy ra ở 75-80% các thể phong u. Niêm mạc bị viêm phù, xuất dịch, viêm mủ, chảy máu, có thể gây loét thủng hoặc teo đét xơ hóa, khứu giác bị giảm thiểu hoặc mất hẳn.

 Vị trí và mức độ tổn thương :

 

Thể LL

Thể TT

 Viêm niêm mạc mũi

85%

25%

 Viêm thanh quản

75%

5%

 Viêm họng

15%

1%

Tổn thương tạng

Trực khuẩn Hansen có thể lan tỏa khắp cơ thể và gây tổn thương ở nhiều tạng như: (1) ở gan: thấy trong 90% ở các thể phong u và 15% các thể phong củ. Gan to, trực khuẩn có thể hiện diện ở trong các xoang mạch, các tế bào Kupffer, nhưng rất hiếm (hoặc không bao giờ) ở tế bào gan. Khoảng cửa có thấm nhập tế bào viêm mãn và tăng sản sợi, hóa xơ (2) ở phổi: co viêm phế quản và quanh phế quản với triệu chứng khó thở, ho, khạc đờm chứa nhiều trực khuẩn (3) ở hệ tiêu hóa (thực quản, dạ dày, ruột) (4) ở hệ sinh dục: tổn thương hiện diện ở tinh hoàn (các bệnh nhân phong u), hiếm ở buồng trứng gồm những cục viêm và viêm mạch limphô, có thể dẫn đến bệnh nữ nhũ (trong 5-20% các bệnh nhân phong u) (5) ở hệ tim mạch: trực khuẩn Hansen có thể xâm nhập vào tế bào nội mô làm chuyển dạng thành tế bào phong, có thể gây huyết tắc ở các vi mạch, ở mạch vành, ở mạch kẽ cơ tim (6) ở thận: gây viêm cầu thận, viêm mô đệm kẽ thận, viêm bể thận (7) ở các tuyến nội tiết (8) ở hệ thần kinh trung ương (viêm màng não, viêm sừng trước tủy sống).

Tổn thương lỗ đáo

Là loại tổn thương xảy ra ở 15% tổng số bệnh nhân phong, ở 90% các bệnh nhân phong củ và 5% các bệnh nhân phong u. Tổn thương hiếm gặp ở người bệnh dưới 20 tuổi và gặp nhiều ở giới nam so với nữ (tỷ lệ là 60% và 35%). Lúc đầu vùng tổn thương phù, sưng tấy, gây cảm giác nóng cháy rồi có bọng nước sau đó vỡ, chảy dịch, máu mủ, loét rộng rồi hoại tử mô lan đến khớp xương. Tổn thương ở 1/3 trước lòng bàn chân, khó chữa lành và có thể hủy hoại cụt đứt một phần bàn chân.

Tổn thương lỗ đáo là do (i) viêm dây thần kinh (gây vô cảm bề mặt da bàn chân, dễ bị chấn thương liên tục, làm teo đét cơ bàn chân, không còn cảm giác, thiếu máu tại chỗ) (ii) rối loạn vận mạch và thần kinh giao cảm (gây co thắt các vi mạch, đôi khi tạo nên những nhánh mạch nối tiếp giữa động -tĩnh mạch hoặc tạo nên những huyết khối tĩnh mạch) (iii) nhiễm khuẩn, hoại thư cả vùng mô tổn thương.

Bài viết cùng chuyên mục

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh hạch lympho

Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh u lành phần mềm

Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.

Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

Giải phẫu bệnh phần mềm

Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt

Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết

Giải phẫu bệnh tinh hoàn

Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.

Giải phẫu bệnh dương vật

U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh tuyến giáp

U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.

Giải phẫu bệnh Carcinom vú

Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan

Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.

Giải phẫu bệnh ung thư gan

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật

Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

Giải phẫu bệnh của đường mật

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh u phúc mạc

Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Giải phẫu bệnh u đại tràng

Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma

Giải phẫu bệnh của ruột thừa

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày

Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.

Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày

Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.

Một số tổn thương giải phẫu bệnh dạ dày

Môn vị có thể bị nghẽn và tổn thương thực thể, có thể do mất trương lực của dạ dày và ruột trên bệnh nhân bị viêm phúc mạc làm liệt ruột.

Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày

Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.

Giải phẫu bệnh viêm dạ dày

Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày

Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).

Giải phẫu bệnh dạ dày

Các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các tuyến ở những vùng khác nhau của dạ dày. Ngoài ra, các tế bào này nằm rải rác khắp ống tiêu hoá và nếu tính tổng số các tế bào này thì ống tiêu hoá là cơ quan nội tiết lớn nhất cơ thể.

Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn

U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng

Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng

Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung

Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.

Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung

Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh

Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.

Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh

Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.

Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi

Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL

Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung

U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung

Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman

Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc

Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung

Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.

Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung

Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung

Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.

Giải phẫu bệnh bệnh thực quản

Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương

Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.

Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng

Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.

Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm

Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh viêm não màng não

Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.

Giải phẫu bệnh ung thư

Các ung thư  thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.

Giải phẫu bệnh khối u

U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.

Giải phẫu bệnh sốc

Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.

Giải phẫu bệnh đông máu nội mạch lan tỏa

Nhiễm khuẩn gây tổn thương lan tỏa nội mạc mạchh máu (do virút, vi khuẩn Gram âm, Rickettsia, Aspergillosis, Histoplasmosis, ký sinh trùng sốt rét v.v....).

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch

Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu

Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết

Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.

Giải phẫu bệnh phù

Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.

Giải phẫu bệnh viêm lao

Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.

Giải phẫu bệnh viêm giang mai

Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm

Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.

Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm

Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán (  ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).

Tổn thương cơ bản của tế bào và mô

Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh

Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng

Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.

Lịch sử giải phẫu bệnh

Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.