Giải phẫu bệnh viêm giang mai

2012-11-25 10:05 AM

Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Lịch sử bệnh giang mai

Vào những năm 2698 - 2599 trước CN, nhiều tài liệu Y học Trung Quốc đã đề cập đến bệnh giang mai, như trong bộ sách của Hoàng Đế, một thầy thuốc nổi tiếng thời đó. Nhiều nghiên cứu khảo cổ học trên những xương người thuộc khoảng thiên niên thứ hai trước CN, ở miền trung nước Nga cũng cho thấy có dấu hiệu tổn thương giang mai (theo Rohlin). Vào thế kỷ 13, nhiều thầy thuốc Trung Quốc đã mô tả bệnh giang mai. Vào cuối thế kỷ 15, giang mai xuất hiện thành dịch bệnh lan tràn ở nhiều nước Châu Âu, sau chuyến đi phát hiện ra châu Mỹ của Cristobal Colom vào năm 1493. Đầu thế kỷ 16, một thầy thuốc Italia, Nicolas Leonniceno 1438-1524 cũng có đề cập đến bệnh giang mai. Tuy nhiên, thuật ngữ "syphilis" (giang mai) xuất hiện đầu tiên trên một tập thơ in năm 1530 của tác giả Girolamo Fracastoro (1478 -1553) người thầy thuốc Italia, thường được coi là người sáng lập ra ngành Truyền nhiễm học. Trong tập thơ đó, Syphilis là tên một nhân vật đã mang một căn bệnh quái ác reo rắc khắp nơi. Cũng có nhà nghiên cứu cho rằng: theo từ nguyên học, syphilis gồm hai gốc "syn" có nghĩa là cùng nhau và "philein" có nghĩa là "yêu". Giữa thế kỷ 16, Jean Fernal (1497 - 1558) xác nhận việc lây truyền bệnh do quan hệ tình dục. Năm 1834, lần đầu tiên chất potassium iode được sử dụng để điều trị bệnh giang mai. Năm 1901, hai nhà khoa học Jules Bordet và Octave Gengou tìm ra hiện tượng cố định bổ thể. Năm 1903, Metchnikoff và Emile Roux gây được bệnh thực nghiệm trên súc vật. Năm 1904, Fritz Richard Schaudinn và Erich Hoffmann phát hiện ra xoắn khuẩn gây bệnh giang mai. Năm 1906 các nhà y học Wassermann, Neisser và Bruck đã áp dụng hiện tượng cố định bổ thể trong phản ứng Wassermann để chẩn đoán bệnh giang mai. Năm 1909 chất Salvarsan (606) được phát hiện trong điều trị có hiệu quả bệnh giang mai, chấm dứt việc sử dụng thủy ngân thường dùng từ xưa.

Đặc điểm và đường lây truyền của vi khuẩn giang mai

Vi khuẩn gây bệnh là Treponema pallidum (Spirocheta) có dạng và cấu trúc hình xoắn (vì vậy gọi là xoắn khuẩn) di chuyển theo kiểu xoắn ốc. Vi khuẩn có kích thước 8 - 15m, có vỏ bao chứa nhiều thành phần cấu tạo mang tính đặc hiệu miễn nhiễm. Xoắn khuẩn phân chia rất nhanh, trong vòng 30 giờ đã tạo thành 2 phần sống động. Sự hiện diện của xoắn khuẩn tại mô bệnh là một dấu chứng chẩn đoán xác định nhất (xoắn khuẩn chỉ hiện diện ở giang mai I và II).

Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất (xà phòng), hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh. Xoắn khuẩn ưa môi trường ẩm ướt và có thể sống trong mô suốt đời người bệnh, nếu không được điều trị kịp thời đầy đủ.

Xoắn khuẩn lây truyền chủ yếu theo đường trực tiếp, qua những vết rách, sướt ở da, niêm mạc (trong quan hệ tình dục) vì vậy, tổn thương luôn hiện diện ở các vùng sinh dục (dương vật, âm môn, môi lớn, môi nhỏ, âm đạo, cổ tử cung)... đôi khi ở hậu môn, hiếm ở môi, lưỡi, amiđan, vú, ngón tay... Có những đường lây truyền bệnh hiếm gặp: trẻ sơ sinh có bệnh giang mai, khi bú vú, có thể truyền bệnh cho người lớn, hoặc nhân viên y tế có thể nhiễm bệnh khi vết sướt da tay chạm xoắn khuẩn trong phòng thí nghiệm. Cũng có những trường hợp bệnh lây truyền qua côn trùng chích đốt, qua dung dịch ô nhiễm.

Xoắn khuẩn thường bao giờ cũng hiện diện ở tổn thương da và niêm mạc trong thời kì giang mai I và II (ở mụn nhiễm và hạch tương ứng) nhưng hầu như không thấy ở thời kì giang mai III.

Về dịch tễ học, tỷ lệ số trường hợp mắc bệnh giang mai sớm cho 100.000 dân trên một số nước là:

 

Năm 1950

Năm 1960

Hoa Kỳ

30

14

Ôxtralia

12

10

Thụy Điển

35

7

Pháp

8

7

Nhật

100

 4

Canada

11

4

Vào những năm của thập kỷ 50 thuộc thế kỷ 20, trên thế giới có khoảng 20 triệu người mắc bệnh giang mai. Tới thập kỷ 60, đã có tới 60 triệu người mắc bệnh trên toàn cầu.

Quá trình nhiễm xoắn khuẩn tạo nên những tổn thương khác nhau tùy thuộc các thời kỳ của bệnh giang mai.

Các tổn thương viêm giang mai

Giang mai I

Vài giờ sau khi nhiễm bệnh, xoắn khuẩn đã xâm nhập ngay vào máu, rồi phát triển nhanh chóng lan rộng trong 24 giờ vào các mạch limphô, đến hạch. Từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 14 sau khi nhiễm bệnh, đã có thể phát hiện xoắn khuẩn trong máu hoặc ở nơi tổn thương, nhưng dù kết quả âm tính, vẫn không thể kết luận là không mắc bệnh. Luôn có thời kỳ ủ bệnh thầm lặng, kéo dài trung bình 3 - 4 tuần lễ (đôi khi 10 ngày - 10 tuần lễ) rồi xuất hiện mụn nhiễm giang mai (còn gọi là mụn nhiễm Hunter) ở nơi xâm nhập xoắn khuẩn. Thời gian hình thành mụn nhiễm khoảng 1 tuần lễ. Đó là một vết loét tròn, rộng 0,5 - 2cm đường kính, (đôi khi rất nhỏ và không được chú ý), màu đỏ sẫm, đáy rắn cứng, không đau, ở đường sinh dục nữ, khoảng 90% các mụn nhiễm (đôi khi nhiều ổ) thường không được phát hiện sớm, vì vậy, mọi tổn thương loét ở vùng đó cần phải được nghi ngờ là tổn thương giang mai, đặc biệt là ở cổ tử cung, âm đạo, môi lớn, nhỏ.... Tỷ số mắc bệnh so sánh ở giới nam và nữ là 3/1. Vài ngày sau nữa, xuất hiện viêm bán cấp của hạch limphô vùng kế cận (có thể một hoặc nhiều hạch, không đau), có thể chứa xoắn khuẩn.

Mụn nhiễm thường xuất hiện, chứa xoắn khuẩn rồi đóng vảy khô và tự khỏi sau 3 - 4 tuần lễ (có khi 8 tuần).

Hình thái vi thể của mụn nhiễm giang mai là một vùng loét, mất chất thượng mô, có xuất dịch tơ huyết, để lộ rõ vùng mô hạt viêm ở lớp bì, rất giàu tế bào (limphô bào, mô bào, nhiều nhất là tương bào).

Các tế bào viêm dày đặc có thể tạo thành một áo vỏ bao quanh vi mạch. Các vi mạch máu tăng sản nhiều, có viêm nội mô, tế bào nội mô sưng to, có nơi lấp kín lòng vi mạch gây huyết khối nhỏ, tạo nên những ổ viêm thoái hóa, hoại tử ở mô quanh hạch. Nhuộm bằng phương pháp tẩm bạc Levaditi, có thể thấy xoắn khuẩn hiện diện ở vách mạch hoặc mô quanh mạch.

Thời kỳ giang mai I thường kéo dài 1-2 tháng, trong thời gian này, những cấu tạo kháng nguyên của xoắn khuẩn tác động tới mô viêm (tương bào) để sản sinh ra nhiều kháng thể làm cho các phản ứng huyết tan, phản ứng lên bông đều dương tính, cho phép chẩn đoán huyết thanh bệnh giang mai.

Giang mai II

Đây là thời kỳ xoắn khuẩn lan rộng trong máu, bắt đầu vào khoảng tuần lễ thứ 9 -14 sau khi nhiễm khuẩn hoặc khoảng 45 ngày sau khi có mụn nhiễm. Trong 1/3 các trường hợp bệnh, mụn nhiễm chưa lành sẹo, đã bắt đầu thời kỳ giang mai II. Bệnh nhân thấy nhức đầu, mệt mỏi, đau khớp, viêm họng. Rồi xuất hiện trên da những hồng đào: đó là những vết tròn, dát hình bầu dục, màu hồng nhạt, không ngứa, đôi khi nhô cao, nhiều rải rác trên ngực, trên người, hiếm thấy ở mặt. Cũng thấy hồng ban sẩn (papule), màu đỏ sẫm, không ngứa, trên da lòng bàn tay, bàn chân, có khi tự biến mất sau vài tháng hoặc để lại những dát sắc tố. Khoảng tháng thứ 4 - 12 sau mụn nhiễm, xuất hiện những mảng viêm giang mai (syphilide) đôi khi rất đa dạng và khó chẩn đoán xác định, nhưng thường có kích thước 3 - 6 mm, màu đỏ sẫm, bóng loáng, đôi khi có vảy, tạo thành dạng vảy nến, có vị trí ở thân người, chi, lòng bàn tay, bàn chân, quanh mũi, miệng, ở da chân tóc, bìu, dương vật, âm hộ, môi lớn nhỏ, vùng hậu môn . Cũng có thể thấy những tổn thương sướt ở niêm mạc miệng, lưỡi, amidan, thanh quản, lúc đầu trắng đục rồi loét đỏ, gây viêm, khó nuốt, giọng khàn. Tổn thương giang mai có thể làm rụng tóc gây hói đầu, rụng lông mày, râu. Cũng có thể thấy tổn thương ở mắt (viêm mống mắt), ở màng ngoài xương, thận, gan, màng não.

Các mảng viêm giang mai có thể phì đại dưới dạng Condilôm lata (còn gọi là Condilôm liễu hoặc Condilôm phẳng, để phân biệt với Condilôm acuminata thường do virút).

Tổn thương vi thể của giang mai II gồm: (i) Condilôm lata: lớp thượng bì tăng sản rõ rệt (tăng gai), đôi khi có cận sừng, các mào thượng bì dài, lấn sâu vào lớp bì. (ii) viêm bì lan tỏa, các vi mạch có viêm nội mạc, vách mạch sưng dày, bao quanh có thấm nhập đủ mọi loại tế bào viêm mãn (limphô bào, đặc biệt rất giàu tương bào), tạo nên một lớp áo vỏ mạch máu.

Nếu được điều trị, tổn thương giang mai II có thể khỏi hết trong vòng 1 tháng, không để lại dấu vết. Nhưng nếu không điều trị tổn thương giang mai II có thể kéo dài vài tháng hoặc 2 - 3 năm ( dưới dạng giang mai tiềm ẩn).

Ở cả hai thời kỳ (giang mai I và hai II) bao giờ cũng có viêm hạch sưng to.

Giang mai tiềm ẩn

Nếu không được điều trị, giang mai có thể tồn tại lâu dài, có khi suốt cả đời người, không có biểu hiện lâm sàng rõ rệt mà chỉ phát hiện qua huyết thanh chẩn đoán: đó là giang mai tiềm ẩn. Theo nhiều tác giả, có tới 1/3 các trường hợp giang mai ở giới nam và 1/2 các trường hợp ở giới nữ chỉ phát hiện nhờ xét nghiệm huyết thanh. Tỷ số đó ngày càng tăng vì những tổn thương ban đầu ngày càng có những dạng hoàn toàn khác với những mô tả kinh điển. Cũng có những trường hợp bệnh không mang dấu hiệu lâm sàng rõ rệt của giang mai I và II mà ngay thoạt đầu đã mang dạng tiềm ẩn và không được phát hiện.

Trong giang mai tiềm ẩn, những kháng thể đặc hiệu tạo nên những phản ứng cố định có giá trị chẩn đoán bệnh cao, và sẽ trở nên âm tính khi khỏi bệnh. Các phụ nữ mắc giang mai tiềm ẩn, dù không có khả năng lây truyền bệnh trong quan hệ sinh dục, nhưng vẫn có thể là nguồn gốc lây bệnh giang mai bẩm sinh ở con cái.

Giang mai tiềm ẩn có thể kéo dài vĩnh viễn hoặc trong vài năm rồi chuyển thành giang mai III.

Giang mai III

Trên 100 bệnh nhân viêm giang mai, nếu không điều trị, có khoảng 28 trường hợp tiến triển sang giang mai III (gồm 13 trường hợp tiến triển lành và 15 tiến triển chết người).

Tổn thương cơ bản của giang mai III là gôm giang mai. Đây là vùng mô hoại tử dở dang, không thuần nhất (còn lại dấu vết viêm vi mạch). Viêm nội mạc vi mạch làm hẹp lòng mạch hoặc lấp tắc mạch gây hoại tử mô kế cận kèm thấm nhập đủ mọi loại tế bào viêm (limphô bào, đại thực bào, đại bào, thoái bào, sợi bào, đặc biệt là rất giàu tương bào). Các thành phần đó có thể sắp xếp đồng tâm, tạo nên những nang giang mai, rất giống nang lao nhưng không bao giờ có chất bã đậu. Khi tiến triển, mô sợi tăng sản mạnh làm cho vùng viêm giang mai bị xơ hóa, rắn cứng, răn rúm (như trong xơ gan giang mai).

Gôm giang mai chính là biểu hiện ái tính của xoắn khuẩn đối với hệ mạch máu. Gôm có thể hiện diện ở nhiều nơi trên cơ thể người bệnh: ở hệ thần kinh trung ương, hệ tim mạch, gan, da, khớp xương, tinh hoàn. Nhiều gôm có thể kết hợp thành u giang mai (syphiloma).

Trong giang mai III không bao giờ có viêm hạch sưng to.

Tổn thương niêm mạc, da: khác hẳn với những tổn thương của giang mai II (thường có số lượng nhiều, lan tỏa nông và không để lại dấu vết sau khi khỏi bệnh ) tổn thương giang mai III thường có số lượng ít, khu trú sâu và để lại sẹo rõ rệt. Tổn thương gồm: (i) những củ, kích thước bằng hạt kê, hạt đậu hoặc cục lớn, riêng lẻ hoặc kết dính nhau, màu đồng đỏ, hiện diện sâu trong lớp bì nên bề mặt da vẫn trơn nhẵn, nhưng đôi khi có thể loét hoại tử. Các củ giang mai có thể ở vị trí trên mặt, da đầu, lưng, chi (ii) những gôm giang mai, kích thước 0,5 - 1cm, thường đơn độc ở chi hoặc ở nơi khác trên cơ thể, rồi loét, bờ rõ nhẵn, không mủ, không đau. (iii) những mảng trắng (bạch sản) màu đục như sứ, ở niêm mạc má, môi, có thể sâu dày rồi loét và hóa ung thư.

Viêm động mạch do giang mai: xảy ra trong khoảng 10% các bệnh nhân giang mai muộn. Đây là tổn thương nặng, không khả hồi, gây nhiều hậu quả xấu và biến chứng cho người bệnh. Thường xảy ra vào khoảng 15 - 20 năm sau mụn nhiễm và ở bệnh nhân nam (nhiều hơn nữ với tỷ số 2/1). Tổn thương là viêm toàn động mạch ở các động mạch lớn (quai động mạch chủ ngực, vùng xoang Valsava, van động mạch chủ xuống, hiếm thấy ở đoạn động mạch dưới cơ hoành), ở các động mạch nhỏ (lỗ động mạch vành, động mạch não ở vùng lục giác Willis).

Viêm động mạch chủ do giang mai thường bắt đầu ở lớp ngoại mạch gồm thấm nhập đủ mọi loại tế bào viêm mãn đặc biệt rất giàu tương bào. Tổn thương lan rộng đến lớp áo giữa rồi lớp áo trong của động mạch làm lớp nội mô sưng dày. Quá trình viêm mãn làm hủy hoại các cấu trúc chun của vách mạch rồi mô sợi xơ thay thế, gây viêm toàn động mạch làm cho vách mạch mất tính chun giãn, trở nên xơ cứng tạo điều kiện hình thành những ổ giãn phồng mạch, rất dễ vỡ gây chảy máu sét đánh.

Viêm động mạch nhỏ do giang mai thường biểu hiện dưới dạng viêm nội mạc: các tế bào nội mô cũng như các chu bào đều tăng sản, làm vách mạch dày, có thể dẫn đến làm hẹp lòng mạch. Cũng thấy thấm nhập nhiều tế bào viêm mãn ở chung quanh động mạch.

Viêm thần kinh trung ương do giang mai: có thể phát hiện qua dịch não tủy. Thường gặp trong 7-10% các trường hợp giang mai muộn. Gồm: (i) tổn thương xơ hóa các vùng sau của tủy sống, nơi dẫn truyền của những cảm nhận sâu, gây triệu chứng Tabès, với những biểu hiện lâm sàng như đau quanh thắt lưng, đau chi dưới, đau khớp cổ tay, cổ chân, mất các phản xạ gân, trương lực bị giảm thiểu (tê tay tê chân), bệnh nhân không đứng thẳng người khi nhắm mắt (dấu hiệu Romberg) (ii) tổn thương dây thần kinh sọ, teo dây thần kinh thị giác (gây mắt mờ, viêm giác mạc, điếc) (iii) viêm màng não - não lan rộng, có thể kèm nhồi máu não, gây liệt toàn thể hoặc tê chi, gây những biến đổi tâm thần (thay đổi hành vi xử thế, mất khả năng suy nghĩ tập trung, phán đoán, mất trí nhớ và lú lẫn, lẩm cẩm, không thể lao động trí óc).

Tổn thương ở nhiều nơi trong cơ thể như: Ở gan, có nhiều ổ gôm giang mai, nhiều vùng xơ cứng tạo hình ảnh xơ gan giang mai. Ở bao khớp (khủy tay, khớp gối cổ tay, cổ chân) có những cục viêm, thường không đau xơ cứng. Ở đường hô hấp trên: gây thủng vòm khẩu cái. Ở xương: gây hủy hoại vách ngăn xương mũi, làm biến dạng xương chi dưới thành hình vòng cung. Ở thận, tinh hoàn.

Giang mai ở thai kỳ

Có thể gặp hai tình huống:

Người mẹ mắc bệnh trước khi thụ thai: Nếu người mẹ không có những triệu chứng lâm sàng, vẫn có thể phát hiện bệnh khi làm xét nghiệm huyết thanh vào tháng thứ 3 của thai kỳ (ở nhiều nuớc Châu Âu, các sản phụ bắt buộc phải làm xét nghiệm này). Nếu được điều trị đúng và đầy đủ, mẹ và con đều có thể khỏi hoàn toàn. Lý do là vì xoắn khuẩn chỉ có thể vượt qua hàng rào nhau thai từ tháng thứ 5 của thai kỳ. Nếu không điều trị đầy đủ, bệnh cứ tiếp diễn và gây sẩy thai, thai chết lưu, ứ nước màng ối, đẻ non thiếu tháng và chết, hoặc thai nhi ra đời (20% các trường hợp sản phụ giang mai) và mang bệnh giang mai bẩm sinh.

Mẹ mắc bệnh trong thai kỳ: Có thể không được phát hiện vì nhiễm khuẩn xảy ra sau khi làm xét nghiệm huyết thanh bắt buộc ở tháng thứ 3 của thai kỳ. Thai nhi sẽ ra đời và mang bệnh giang mai bẩm sinh .

Giang mai bẩm sinh

Bệnh đã được Ambroise Paré (1510 - 1590) một thầy thuốc người Pháp, mô tả khá đủ trong cuốn sách của ông xuất bản năm 1564. Không thể gọi là giang mai di truyền vì: (i) gen nhiễm sắc không bao giờ bị tổn thương do xoắn khuẩn (ii) cả noãn bào và tinh trùng đều không bao giờ chứa xoắn khuẩn. Phải gọi là giang mai bẩm sinh vì xoắn khuẩn được truyền từ người mẹ có bệnh sang thai nhi, trong khoảng từ tháng thứ 5 đến hết thai kỳ.

Có thể phân biệt hai dạng giang mai bẩm sinh :

Giang mai bẩm sinh sớm: Trẻ sơ sinh gầy yếu dáng "cụ non", cân nặng khoảng 2 kg, nhau thai phì đại có thể nặng tới hơn 1/6 trọng lượng trẻ sơ sinh. Thấy có những tổn thương như nhiều bọng nước lớn, khu trú ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, nhiều khe nứt ở miệng, hậu môn, chứng sổ mũi (coryza) mủ và máu do loét các xương sụn ở mũi, loét họng làm tiếng trẻ khóc khàn trầm lạ tai, có nhiều hồng đào và sần giang mai da. Còn thấy nhiều tổn thương khác như: xương khớp (gặp trong 80% các tổn thương giang mai bẩm sinh) (viêm xương sụn vào tháng thứ 2 - 3 sau sinh), gan to rắn cứng và xơ hóa, lách to, viêm thận, viêm tinh hoàn, viêm màng não, viêm dây thần kinh thị giác, thiếu máu. Một điều cần lưu ý là giang mai bẩm sinh tiềm tàng chỉ được xác định dựa trên xét nghiệm chẩn đoán huyết thanh dương tính ở người mẹ chứ không dựa vào xét nghiệm chẩn đoán ở trẻ sơ sinh, bởi vì một thai nhi sinh từ mẹ có bệnh (dù đã được điều trị) vẫn có thể mang những kháng thể tồn dư từ người mẹ suốt thời gian vài ba tháng. Do đó trẻ sơ sinh vẫn phải được theo dõi và điều trị.

Giang mai bẩm sinh muộn: Thường do không phát hiện được bệnh ở trẻ sơ sinh. Những dấu hiệu lâm sàng thường xuất hiện ở trẻ 2 tuổi hoặc 5 - 10 tuổi, đôi khi muộn hơn, vào lúc trưởng thành. Hiếm thấy các tổn thương da và niêm mạc. Thường gặp các tổn thương xương khớp (xương chầy biến dạng, hình lưỡi kiếm cong, viêm xương giang mai...) và tổn thương của mắt, tai, răng như: viêm giác mạc cả hai mắt, viêm mê lộ vùng tai gây điếc, viêm răng kiểu Hutchinson, khấp khểnh, nhấp nhô ...

Một điều đáng lưu ý là bệnh giang mai bẩm sinh thường rất nặng và rõ rệt ở trẻ nhỏ (ra đời kế tiếp trong các lần sinh đẻ) nhưng bệnh lại có vẻ giảm thiểu dần ở người mẹ.

Bài viết cùng chuyên mục

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh hạch lympho

Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh u lành phần mềm

Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.

Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

Giải phẫu bệnh phần mềm

Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt

Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết

Giải phẫu bệnh tinh hoàn

Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.

Giải phẫu bệnh dương vật

U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh tuyến giáp

U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.

Giải phẫu bệnh Carcinom vú

Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan

Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.

Giải phẫu bệnh ung thư gan

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật

Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

Giải phẫu bệnh của đường mật

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh u phúc mạc

Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Giải phẫu bệnh u đại tràng

Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma

Giải phẫu bệnh của ruột thừa

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày

Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.

Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày

Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.

Một số tổn thương giải phẫu bệnh dạ dày

Môn vị có thể bị nghẽn và tổn thương thực thể, có thể do mất trương lực của dạ dày và ruột trên bệnh nhân bị viêm phúc mạc làm liệt ruột.

Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày

Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.

Giải phẫu bệnh viêm dạ dày

Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày

Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).

Giải phẫu bệnh dạ dày

Các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các tuyến ở những vùng khác nhau của dạ dày. Ngoài ra, các tế bào này nằm rải rác khắp ống tiêu hoá và nếu tính tổng số các tế bào này thì ống tiêu hoá là cơ quan nội tiết lớn nhất cơ thể.

Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn

U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng

Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng

Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung

Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.

Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung

Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh

Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.

Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh

Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.

Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi

Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL

Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung

U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung

Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman

Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc

Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung

Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.

Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung

Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung

Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.

Giải phẫu bệnh bệnh thực quản

Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương

Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.

Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng

Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.

Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm

Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh viêm não màng não

Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.

Giải phẫu bệnh ung thư

Các ung thư  thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.

Giải phẫu bệnh khối u

U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh sốc

Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.

Giải phẫu bệnh đông máu nội mạch lan tỏa

Nhiễm khuẩn gây tổn thương lan tỏa nội mạc mạchh máu (do virút, vi khuẩn Gram âm, Rickettsia, Aspergillosis, Histoplasmosis, ký sinh trùng sốt rét v.v....).

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch

Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu

Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết

Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.

Giải phẫu bệnh phù

Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.

Giải phẫu bệnh viêm lao

Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm

Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.

Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm

Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán (  ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).

Tổn thương cơ bản của tế bào và mô

Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh

Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng

Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.

Lịch sử giải phẫu bệnh

Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.