Giải phẫu bệnh u đại tràng

2012-11-29 01:58 PM

Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Trong ống tiêu hoá, đại tràng, kể cả trực tràng, là nơi có xuất độ u cao nhất. Theo tài liệu nước ngoài, ung thư đại tràng là ung thư gây tử vong thứ nhì sau ung thư phổi. Theo Parkin và cộng sự 1988, ước tính số ca ung thư mới mắc trong một năm thì ở các nước phát triển, ung thư đại tràng đứng thứ nhì sau ung thư phổi, còn ở nước đang phát triển thì ung thư đại tràng đứng hàng thứ 8.

Trong các u của đại tràng thì pôlíp thượng mô có xuất độ cao nhất, với hình thái và tính chất đặc thù. Kế đến là carcinom. Các loại u lành khác như u mỡ, u mạch máu... rất hiếm gặp và có tính chất giải phẫu bệnh giống như ở các vị trí khác trong cơ thể.

Pôlíp

Pôlíp có thể có trong 25% đến 50% người già. Có hai loại pôlíp, pôlíp không phải u, được gọi là pôlíp tăng sản, và pôlíp u được gọi là u tuyến. Các u tuyến được coi như là tổn thương tiền ung thư và do đó đòi hỏi các bác sĩ lâm sàng phải phát hiện và điều trị sớm.

Các u tuyến lại được chia làm 3 loại tùy theo đặc tính mô học: dạng ống tuyến, dạng ống nhánh và dạng nhánh.

Có sự tương quan giữa kích thước pôlíp với loại mô học và với đặc tính sinh ung thư. Loại có kích thước nhỏ nhất là pôlíp tăng sản, kế đến là u tuyến ống và loại có kích thước to nhất là u tuyến nhánh. Loại pôlíp tăng sản luôn luôn lành tính, còn loại u tuyến nhánh có xuất độ 25% đến 50% có thể trở thành ung thư. Loại u tuyến ống có kích thước trung bình thì vấn đề trở thành ung thư của u còn đang được bàn cãi.

Tất cả các pôlíp này đều xuất nguồn từ các tế bào nằm sâu trong các hốc của tuyến niêm mạc đại tràng. Bình thường, hiện tượng phân bào rất hiếm có ở 1/3 sâu của các hốc. Có lẽ do cơ chế kiểm soát hoạt động phân bào bị rối loạn mà các pôlíp thượng mô được hình thành. Sự hình thành các pôlíp tăng sản không phải u do sự thiếu kiểm soát trong hoạt động tăng trưởng của các tế bào hốc ở một vùng hơi rộng. Sự hình thành các pôlíp tân tạo (u thật) là do mất hoàn toàn sự kiểm soát các hoạt động tăng trưởng dọc theo cả hốc. Kích thước sau cùng của một pôlíp tân tạo phụ thuộc vào thời gian, vào mức độ mất khả năng kiểm soát sự tăng trưởng, vào mức độ máu nuôi và vào các yếu tố khác chưa được biết.

Pôlíp tăng sản

Pôlíp tăng sản chiếm tỷ lệ 90% tất cả các pôlíp thượng mô trên các khảo sát mổ tử thi. Nhưng trong các pôlíp được sinh thiết thì pôlíp tăng sản chỉ chiếm tỉ lệ 15-20%. Có sự khác biệt tỉ lệ như trên là vì hầu hết các pôlíp tăng sản đều không gây triệu chứng, chỉ được phát hiện và cắt bỏ một cách tình cờ khi bệnh nhân được điều trị một bệnh khác.

Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma, nội soi đại tràng và X.quang cho các bệnh khác (ví dụ: ung thư đại tràng).

Về vị trí

Pôlíp có ở trực tràng và đại tràng sigma 60-80%, đại tràng lên 20%, và các nơi còn lại của đại tràng 10%.

Về hình thái

Tổn thương không có cuống, tròn hoặc dài, trơn láng, ướt, ở đỉnh đầu của các nếp gấp niêm mạc, đường kính thường khoảng dưới 5mm. Có thể có một pôlíp nhưng thường có nhiều pôlíp. Trên các bệnh phẩm phẫu thuật, pôlíp thường có kích thước to hơn và có thể có cuống, giống như các u tuyến ống.

Dưới kính hiển vi, pôlíp tăng sản gồm những ống và những hốc tuyến có hình thái rõ ràng, lót bởi một lớp tế bào thượng mô không tân sinh dưới dạng biệt hoá của tế bào đài hoặc tế bào hấp thu. Do có nhiều tế bào thượng mô, bờ của pôlíp khi nhìn nghiêng như có hình răng cưa. Các pôlíp tăng sản to đôi khi có các ổ biến đổi dạng tuyến (sẽ mô tả ở phần sau).

U tuyến ống

Chiếm tỷ lệ khoảng 75% các u tuyến, cho nên, đôi khi người ta gọi là pôlíp tuyến. Bệnh có thể ở người bình thường hoặc có trong một số hội chứng có tính chất di truyền (ví dụ: bệnh đa pôlíp gia đình). Trong phần này, chúng tôi chỉ đề cập đến loại không có liên quan đến các hội chứng có tính chất di truyền.

Tuổi mắc bệnh trung bình là 60 tuổi. Giới nam có xuất độ bệnh cao gấp hai lần giới nữ. Xuất độ bệnh tăng dần sau 30 tuổi.

Tổn thương có chủ yếu ở đại tràng trái kể cả trực tràng (75%). Khoảng 50 đến 60% có ở trực tràng và đại tràng sigma.

Hơn 50% trường hợp chỉ có một tổn thương, 30 - 40% có 2 hay hơn 2 tổn thương có cùng một lúc, và khoảng 15 - 17% có hơn 5 tổn thương. Hầu hết tổn thương có cuống nhỏ dài 1 đến vài cm và có đầu giống như trái dâu to từ vài mm đến vài cm, vì vậy, còn có tên gọi là u tuyến có cuống. Từ cuống có một trục bằng mô sợi-mạch máu đi đến đầu u. Cuống u được phủ bởi một lớp niêm mạc ruột bình thường. Đầu u được phủ bởi lớp thượng mô rất dày. Đôi khi, u không có cuống mà có dạng hoặc tròn, hoặc như dạng não, hoặc phẳng dạng mảng.

Vi thể:

Lớp thượng mô tuyến của đầu u gồm những ống và những tuyến dài sắp xếp dày đặc, ngăn cách nhau bởi mô đệm sợi thưa. Tế bào thượng mô có hình thái ít biệt hoá, dù vẫn còn rải rác một ít tế bào đài. Đặc điểm tế bào ít biệt hoá là tiêu chuẩn để chẩn đoán phân biệt giữa u tuyến tân tạo với pôlíp tăng sản. Các tế bào này cao, khít nhau, có nhân xếp kiểu giả tầng, tạo hình ảnh "hàng rào". Nhân tế bào rất tăng sắc với sự gia tăng của tỉ lệ nhân/bào tương. Có thể có nghịch sản, không điển hình, có phân bào, nhưng không có thoái sản.

Khi trở thành carcinom, các tuyến và các hốc có khuynh hướng xếp dày đặc, đôi khi có hình ảnh các tuyến "đâu lưng" với nhau (back to back). Các tế bào cũng nhiều hơn không xếp hình hàng rào nữa mà chồng lên nhau. Nhân tế bào tăng sắc hơn, có nhiều phân bào hơn và có phân bào bất thường. Màng đáy của các tuyến có thể vẫn còn nguyên (carcinom tại chỗ) hoặc tế bào u đã xâm nhập mô đệm sợi-mạch máu, hoặc xâm nhập lớp cơ niêm, hoặc xâm nhập trục mô sợi-mạch máu của u.

Khoảng 20 đến 25% các u tuyến ống có thành phần dạng nhánh. Khi có biến đổi thành carcinom, thì thành phần biến đổi này có trong các chỗ dạng nhánh. Các u tuyến ống không có thành phần nhánh rất hiếm khi hoá ác, và thường có đường kính nhỏ (đường kính dưới 1cm). Sự hiện diện của thành phần nhánh làm cho u dễ trở thành carcinom. U càng lớn thì càng dễ có thành phần nhánh và càng dễ thành carcinom. Xuất độ trở thành carcinom là 3 đến 5% cho các u tuyến ống nói chung.

U tuyến ống thường được tình cờ phát hiện lúc mổ tử thi, lúc làm nội soi ruột hoặc lúc chụp X.quang đại tràng để chẩn đoán một bệnh khác. Đôi khi, u xuất huyết hoặc gây lồng ruột.

Nếu u có cuống, chỉ cần cắt u là đủ. Nếu u không có cuống, cần phẫu thuật rộng, cắt đoạn đại tràng bởi vì có từ 15 - 20% trường hợp u còn sót lại nếu chỉ cắt u.

U tuyến nhánh

Bất kỳ u tuyến đại tràng nào có trên 50% (vài tác giả đề nghị 75%) cấu trúc nhánh thì được gọi là u tuyến nhánh. Đây là loại pôlíp thượng mô to nhất, có diễn tiến xấu nhất và hiếm gặp nhất (10 đến 15% các u tuyến được cắt bỏ). Tuổi có xuất độ bệnh cao là 60 đến 65 tuổi, hiếm gặp ở tuổi dưới 50. Giới nam và giới nữ mắc bệnh ngang nhau.

Vị trí u như sau: trực tràng 50-55%, đại tràng sigma 30%, đại tràng xuống 10%, các phần còn lại của đại tràng 5-10%.

U có kích thước thay đổi, có đường kính từ 1 đến 10cm, không có cuống (có đáy rộng), hơi có thùy, hay mịn như da, màu xám. Đôi khi có những chỗ xuất huyết hoặc loét bề mặt. Rất hiếm khi u có cuống rộng.

Vi thể:

Có ít nhất phân nửa u tuyến nhánh có những nhú giống ngón tay hoặc đôi khi phân nhánh, phủ bởi lớp thượng mô dạng pôlíp. Phần còn lại của u là cấu trúc dạng ống. Có sự tương quan giữa kích thước u với cấu trúc nhánh. Mỗi nhú có một trục sợi-mạch máu, phủ bởi lớp thượng mô. Lớp thượng mô này có thể chỉ là một lớp tế bào trụ cao xếp đều đặn, hoặc có thể là những tế bào thoái sản sắp xếp thành nhiều lớp lộn xộn hoặc đôi khi thành ống tuyến thoái sản, kèm nhiều phân bào.

U tuyến nhánh thường gây triệu chứng lâm sàng hơn các loại pôlíp khác, với xuất huyết trực tràng. Đôi khi, do u tiết ra nhiều chất nhầy có nhiều protein và potassium nên bệnh nhân có thể có tình trạng giảm protein huyết, giảm albumin huyết, giảm kali huyết. Rất hiếm khi u gây tiêu chảy kéo dài với mất nước và chất điện giải.

U tuyến nhánh là tổn thương tiền ung thư. 10% các u có carcinom tại chỗ và 25% đến 40% có carcinom xâm nhập. Cần phát hiện và cắt bỏ u sớm.

U tuyến ống-nhánh

Cấu trúc u vừa có ống vừa có nhánh với 20% đến 50% thành phần nhánh. Như đã đề cập ở trên, nếu u có dưới 20% thành phần nhánh thì được coi là u tuyến ống. Khả năng hoá ung thư của u tuyến ống-nhánh ở giữa hai loại trên.

Vị trí u trong đại tràng tương tự như u tuyến ống. Đường kính u từ 0,5 đến 5cm (ở giữa kích thước của hai loại trên). Hầu hết u có cuống nên khó phân biệt với u tuyến ống nhưng u có khuynh hướng phát triển thành không có cuống hơn.

Vi thể:

 U có thể có hình thái hiền lành của u tuyến ống, có thể có các hình thái không điển hình hoặc thoái sản, có thể có hình thái của carcinom xâm nhập ở thành phần nhánh. Chỉ có thể phân biệt 3 loại u tuyến bằng hình thái vi thể.

Liên quan giữa u tuyến với carcinom

Tất cả các u tuyến đại tràng đều có thể trở thành carcinom, nhiều nhất là loại u tuyến nhánh, ít nhất là loại u tuyến ống.

Một mối liên quan rất quan trọng đã được lặp lại nhiều lần, đó là mối liên quan giữa kích thước của u tuyến (dù là loại mô học nào) với khả năng có carcinom. Xuất độ ung thư trong các pôlíp có đường kính dưới 1cm rất thấp. Xuất độ này là 5 đến 10% ở các u tuyến to 1 đến 2cm và khoảng 30 đến 40% ở các u tuyến to hơn nữa.

Mối liên quan thứ hai là xuất độ có carcinom tăng theo số lượng của thành phần nhánh chứa trong u tuyến. Vì vậy, một số tác giả cho rằng sự hình thành ung thư là một diễn tiến sinh học, bắt đầu bằng sự tăng sản có kiểm soát, tiến dần đến sự hình thành các tuyến ống tân tạo không được kiểm soát, rồi thành phần cấu trúc nhánh, và cuối cùng đến carcinom.

Ba câu hỏi khó trả lời được đưa ra:

(1): có phải tất cả các u tuyến đều trở thành ung thư nếu có đủ thời gian ?

(2): với thời gian bao lâu thì carcinom hình thành ?

(3): có phải tất cả các carcinom đại tràng đều xuất nguồn từ u tuyến có trước ?

Trước hết, không chắc chắn rằng tất cả các u tuyến đều sẽ trở thành carcinom.

Có rất nhiều bệnh nhân bị bệnh đa pôlíp gia đình, trong đó có những u tuyến ống và u tuyến nhánh, chỉ có một số bệnh nhân này bị carcinom đại tràng. Ngoài ra, khi có carcinom xuất hiện trên các u tuyến to, thì các u tuyến còn lại vẫn lành tính. Một số khảo sát cũng cho thấy rằng có những u tuyến nhánh bị tái phát sau khi cắt bỏ vẫn mang đặc tính lành mà không trở thành ung thư.

Với câu hỏi về thời gian, người ta có thể trả lời, dù do dự rằng: sau nhiều năm, có thể là 10 năm, một u tuyến mới có thể trở thành ung thư. Theo một khảo sát, người ta thấy tuổi trung bình của bệnh đa pôlíp gia đình được chẩn đoán là 27 tuổi và tuổi trung bình của bệnh này lúc được chẩn đoán có ung thư là 39 tuổi (cách nhau 12 năm). Trong thời kỳ mà phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ đại tràng chưa được thực hiện để điều trị bệnh đa pôlíp gia đình, một khảo sát cho thấy trong 59 bệnh nhân bị bệnh này có 12% bị ung thư trong 5 năm, 25% bị ung thư trong 10 năm, 30% trong 15 năm, và trên 50% trong 20 năm.

Với câu hỏi thứ ba thì câu trả lời vẫn còn chưa được rõ ràng. Một mặt, người ta thấy những carcinom đại tràng có đường kính dưới 1cm rõ ràng không xuất nguồn từ các u tuyến có trước. Mặt khác, các khảo sát về dịch tễ học cho thấy, ở nhiều xứ, có sự đi song song giữa xuất độ cao của ung thư đại tràng với xuất độ cao của u tuyến. Ví dụ, ở Nhật có xuất độ thấp của ung thư đại tràng, tương ứng với xuất độ rất thấp của u tuyến. Có tác giả còn cho rằng, ngay cả những carcinom có kích thước nhỏ 1 đến 2cm cũng có thể xuất nguồn từ một u tuyến và đã xóa đi tất cả các vết tích của u tuyến có trước đó. Vì vậy, có một mối liên quan ngược giữa sự tồn tại của mô u tuyến với kích thước của ung thư. Theo Gilbertsen, 1974, khi một số đông bệnh nhân được theo dõi định kỳ bằng nội soi đại tràng sigma và được cắt bỏ tất cả chỗ lồi lên trong niêm mạc thì xuất độ ung thư trực tràng và đại tràng sigma sẽ giảm xuống đến 85%. Vì vậy, nhiều tác giả cho rằng tất cả hoặc hầu hết ung thư đại tràng xuất nguồn từ các u tuyến có trước dù điều này khó được xác định rõ ràng.

Dù các câu trả lời chưa dứt khoát nhưng trên quan điểm thực tế, cần nhớ rằng trên bệnh nhân có pôlíp đại tràng, dù pôlíp có kích thước nhỏ, mà không lưu ý đến là một việc làm nguy hiểm.

Các hội chứng đa pôlíp

Bệnh di truyền, do gen trội trên thể nhiễm sắc thường. Trong nhiều trường hợp, bệnh kèm theo các dị tật khác ngoài ruột. Có 6 hội chứng đã được mô tả bởi Mc. Kusick từ năm 1962. Bốn hội chứng quan trọng nhất là bệnh đa pôlíp gia đình, hội chứng Peutz-Jeghers, hội chứng Gardner, và hội chứng Turcot.

Bệnh đa pôlíp gia đình của đại tràng:

Gồm hàng ngàn pôlíp tân tạo nằm đầy lòng đại tràng, đôi khi có cả ở phần cao hơn của ruột, và ở dạ dày. Dù là bệnh di truyền theo gen trội trên thể nhiễm sắc thường, các pôlíp không xuất hiện trước tuổi 20 đến 30 tuổi. Một người thuộc gia đình mắc bệnh này nếu không có pôlíp ở tuổi 40 thì cũng không chắc là có pôlíp ở tuổi trễ hơn.

Các pôlíp này thường nhỏ, đường kính 1cm, có cuống và là dạng u tuyến ống. Khi có nhiều, xếp dày đặc, các pôlíp làm cho bề mặt niêm mạc có dạng như lông thú. Dưới kính hiển vi, các pôlíp này thường là u tuyến ống, ít khi pôlíp không có cuống, có dạng u tuyến nhánh.

Các pôlíp này có xuất độ cao trở thành carcinom, nhất là các pôlíp to và trên các bệnh nhân không được điều trị sớm bằng cách cắt bỏ toàn bộ ruột có pôlíp. Thời gian có pôlíp càng dài, khả năng hoá ác càng cao. Khả năng trở thành ung thư của bệnh đa pôlíp gia đình cao hơn nhiều so với các pôlíp đã đề cập ở phần trên. Chẩn đoán pôlíp bằng nội soi đại tràng, bằng X.quang đại tràng có barýt.

Hội chứng Peutz-Jeghers:

Cũng là bệnh di truyền do gen trội trên nhiễm sắc thể thường. Bệnh nhân có rất nhiều pôlíp trong toàn bộ ống tiêu hoá, đặc biệt là ruột non, kèm theo các đốm sắc tố ở niêm mạc miệng, môi, các ngón tay và lòng bàn chân.

Các pôlíp trong hội chứng này giống như trong bệnh đa pôlíp gia đình hoặc u tuyến ống không do di truyền, nhưng thường thường, chúng có dạng cuộn như não hoặc dạng ngón tay gồ lên trên bề mặt niêm mạc ruột.

Vi thể:

Thay vì là những ống và tuyến như u tuyến ống, các pôlíp của hội chứng Peutz-Jeghers gồm những hamartom với những bọc dãn nở chứa đầy mucin và được lót bởi những tế bào thượng mô tiết nhầy giống bình thường.

Khác với bệnh đa pôlíp gia đình đã kể trên, các pôlíp của hội chứng Peutz-Jeghers không trở thành ung thư.

Tuy nhiên, những người thuộc gia đình mắc hội chứng này có thể có các u tuyến tân tạo và ung thư, nhưng không chỉ là ung thư của ống tiêu hoá mà còn có thể là ung thư ngoài ống tiêu hoá.

Hội chứng Gardner:

Gồm đa pôlíp kèm theo các u bó sợi và các u ở bất kỳ nơi nào. Các u bó sợi có thể có ở thành bụng hoặc ở màng ngoài xương, ở hốc mắt, ở mạc treo, ở trung thất, ở tứ chi, ở thân người, và ở vùng đầu cổ, có thể xâm nhập mô kế cận, dễ tái phát dù không cho di căn. Các pôlíp của hội chứng Gardner cũng dễ trở thành ung thư giống như pôlíp trong bệnh đa pôlíp gia đình. Các u ngoài ruột có thể có ở da, dưới da và xương.

Hội chứng Turcot:

Gồm đa pôlíp ở đại tràng và u não. Bệnh di truyền do gen lặn trên thể nhiễm sắc thường. Các pôlíp đại tràng có thể hoá ác, nhưng mức độ hoá ác chưa được biết chắc chắn.

Các loại pôlíp khác

Gồm các u lành của vách ruột như u cơ trơn, u sợi, u mỡ, u mạch máu, u sợi thần kinh với hình thái giải phẫu bệnh giống như ở các vị trí khác. Khi các u này còn nhỏ, có thể có dưới dạng những tổn thương trong vách. Khi u to, có thể có dạng pôlíp. Hiếm khi các u lành này gây triệu chứng lâm sàng.

Ngoài ra, còn có 2 loại tổn thương khác dạng pôlíp. Đó là pôlíp ở thiếu niên và pôlíp limphô.

Pôlíp ở thiếu niên ở đại tràng, nhất là ở đại tràng sigma và trực tràng. Pôlíp này thường to và có cuống, với nhiều mô đệm sợi mạch máu thưa và các tuyến dãn rộng (có chỗ tạo bọc). Các tổn thương này phát xuất từ những tuyến bất thường bẩm sinh tạo thành những bọc nhầy tồn dư. Có thể có thấm nhập bạch cầu trong mô đệm. Hiếm khi pôlíp này hoá ác và tái phát.

Pôlíp limphô, rất hiếm gặp, gồm rất nhiều mô limphô, phủ bởi lớp niêm mạc ruột đều đặn, đôi khi teo đét. Mô limphô trong pôlíp có thể hoàn toàn bình thường, với các nang limphô rõ ràng và mô đệm là các limphô bào trưởng thành. Có tác giả cho rằng đây là loại limphom dạng cục ở ruột. Cũng có tác giả cho rằng đây là những ổ tăng sản limphô dưới niêm mạc ruột. Trong hầu hết trường hợp, chỉ cần cắt bỏ pôlíp là đủ trị khỏi. Đôi khi, có các u thật của mô limphô có ở trực tràng dưới dạng nguyên phát hoặc là một biểu hiện của limphom toàn thân. Khi đó, cần phải chẩn đoán phân biệt kỹ.

Carcinom tuyến

Chiếm tỷ lệ 98% các ung thư đại tràng, là nguyên nhân gây chết đứng hàng thứ hai (60.000 người mỗi năm) sau ung thư phổi (117.000 người mỗi năm) ở Hoa Kỳ.

Theo Nguyễn Chấn Hùng và cs., tại TP. Hồ Chí Minh, năm 1997, trong 10 loại ung thư có xuất độ cao nhất, ung thư đại tràng đứng hàng thứ 4 ở giới nam, hàng thứ 3 ở giới nữ.

Về phương diện dịch tễ học, yếu tố môi trường giữ vai trò rất quan trọng.

Bệnh có xuất độ cao nhất ở vùng Tây Bắc Âu, vùng Bắc Mỹ, một số vùng Anglo-Saxon, và có xuất độ thấp nhất ở Nam Mỹ, Châu Phi, Châu Á. Dường như bệnh thường xảy ra hơn ở những người có mức sống cao. Tuy nhiên, ở Nhật, nơi có mức sống cao, lại là nơi có xuất độ bệnh thấp. Hơn nữa, giữa những người có mức sống cao, xuất độ bệnh cũng rất thay đổi.

Ở Hoa Kỳ, người da đen có xuất độ và tử suất do carcinom đại tràng cao hơn người da trắng. Ngay trong một nước, xuất độ bệnh cũng thay đổi theo tùy vùng địa dư, vùng thành thị thì có xuất độ bệnh và có tử suất cao hơn vùng nông thôn. Những di dân từ xứ này sang xứ khác sau nhiều thế hệ sẽ có xuất độ bệnh giống như dân bản địa. Một khảo sát cho thấy những di dân Nhật đến Hoa Kỳ có xuất độ bệnh cao gấp 3-4 lần so với dân Nhật ở tại Nhật. Dù có sự khác biệt về xuất độ bệnh theo nước và theo chủng tộc, vai trò của các yếu tố di truyền vẫn không rõ ràng. Chỉ có một số ít trường hợp, trong đó, người ta thấy các thân nhân của những bệnh nhân bị ung thư đại tràng thì có xuất độ bệnh cao hơn người khác. Ngoài ra, còn có hội chứng di truyền có kèm theo xuất độ cao của bệnh.

Vai trò của các yếu tố thực phẩm vẫn còn nghi ngờ.

Carcinom đại tràng có xuất độ cao nhất ở tuổi 70. Dưới 25% trường hợp bệnh được chẩn đoán ở người dưới 50 tuổi, trong số đó có những người đã mắc bệnh di truyền đã đề cập ở phần bệnh pôlíp ở trên. Giới nam và nữ có xuất độ bệnh ngang nhau, ngoại trừ loại carcinom trực tràng và hậu môn thì giới nam có xuất độ bệnh gấp hai lần giới nữ.

Nguyên nhân và sinh bệnh học

Người ta thấy có hai vấn đề liên quan:

(1) Các tổn thương tiền ung và nghịch sản giữ vai trò quan trọng.

(2) Các yếu tố thực phẩm.

Các tổn thương có trước của đại tràng như các u tuyến nhánh, viêm loét đại tràng, viêm đại tràng trong bệnh Crohn, bệnh đa pôlíp gia đình, hội chứng Gardner, hội chứng gia đình-ung thư (trong đó thường gặp ung thư đại tràng và các loại ung thư khác). Khả năng trở thành ung thư của các tổn thương này đã được đề cập ở phần trước.

Vai trò của thực phẩm, vẫn còn đang được khảo sát vì còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng. Có hai vấn đề đã được xác nhận. Đó là vai trò của thức ăn có thịt và mỡ động vật, vai trò của thực phẩm ít chất xơ.

Ăn nhiều thịt, nhất là thịt bò, trong đó có nhiều mỡ có thể dễ bị ung thư đại tràng. Theo giả thuyết này, thực phẩm có nhiều mỡ động vật có hai tác dụng: làm tăng lượng acid mật và các sterols trung tính, làm thay đổi các vi khuẩn có sẵn trong ruột. Sự thay đổi này thúc đẩy sự phát triển của các bacteroides, ức chế và làm tăng tương đối số vi khuẩn yếm khí đặc biệt là các Clostridium. Các vi khuẩn này có thể biến đổi các acid mật và sterols trung tính thành các chất chuyển hoá có khả năng thúc đẩy hoặc mở đầu cho sự hình thành các u.

Bữa ăn với thực phẩm ít chất xơ có thể làm giảm độ lớn của phân, làm kéo dài thời gian phân ở lại trong đại tràng, do đó, tạo cơ hội cho sự sản xuất các chất sinh ung nội sinh và làm cho niêm mạc ruột phải tiếp xúc lâu hơn với các chất sinh ung. Sự giảm độ lớn của phân còn làm giảm sự hòa tan và mức bám của các chất sinh ung trong phân. Các bằng chứng này được ghi nhận từ các khảo sát dịch tễ học ở Phi Châu. Người ta thấy rằng người Bantus, có thói quen ăn thực phẩm nhiều chất xơ thì có tần suất ung thư đại tràng thấp hơn các người Phi châu ở thành thị (ăn ít chất xơ).

Tuy nhiên, có những lập luận khác về vai trò của thực phẩm ít chất xơ trong vấn đề sinh ung:

(1): thời gian phân đi qua đại tràng không chỉ tùy thuộc vào thực phẩm mà còn do yếu tố di truyền.

(2): các thực phẩm ít chất xơ cũng là những thực phẩm có ít các sinh tố A, B, E (có trong rau, quả) là những sinh tố được coi như làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư.

(3): một số loại rau cải họ thập tự như: cải bông, bông cải, cải bắp... có khả năng ức chế sự hình thành ung thư nhờ vào tác dụng làm giảm hoạt động của enzyme hydrocarbon hydroxylase trong ruột (chứ không phải nhờ vào các chất xơ). Loại enzyme này làm cho các chất hydrocarbon sinh ung dễ bị hư và vì vậy có tác dụng bảo vệ niêm mạc ruột.

Như vậy, chế độ ăn uống với thực phẩm ít chất xơ làm tăng nguy cơ bị ung thư đại tràng, không phải chỉ vì nó làm giảm độ lớn của phân và làm kéo dài thời gian phân đi qua ruột mà còn có thể vì các ảnh hưởng khác.

Hình thái giải phẫu bệnh

Theo Robbins 1984, khoảng 70 đến 75% carcinom đại tràng có vị trí ở trực tràng, nơi tiếp giáp trực tràng-đại tràng sigma, hoặc đại tràng sigma. Phần còn lại là đại tràng xuống, đại tràng ngang, manh tràng. Theo Sherman, trên 50% carcinom ở trực tràng, 20% ở đại tràng sigma, 15% ở đại tràng phải, 6 - 8% ở đại tràng ngang, 6 - 7% ở đại tràng xuống và chỉ có 1% ở hậu môn. Hiếm khi có nhiều tổn thương một lúc, nếu có, thì trên các bệnh nhân có tiền căn bệnh đa pôlíp gia đình hoặc viêm loét đại tràng.

Mặc dù tất cả carcinom đại tràng đều khởi đầu bằng carcinom tại chỗ, nhưng khi được phát hiện, đều có hình thái của một trong 2 dạng sau đây:

Carcinom của đại tràng trái

Tổn thương ban đầu có dạng nốt nhỏ gồ cao hoặc dạng pôlíp. Nốt này lớn dần thành một mảng phẳng, lan rộng thành vòng trong vách ruột (thời gian ước tính để tổn thương lan hết một vòng chu vi lòng ruột là 1 đến 2 năm), nhưng là tổn thương nông, ăn lan rất chậm vào các lớp sâu. Dần dần, tổn thương vòng bị loét ở giữa, xâm nhập mạch máu trong vách. Điển hình, tổn thương hoàn toàn sẽ có dạng vòng siết ăn cứng vách ruột, làm hẹp lòng ruột kèm loét rộng ở giữa, gây nghẹt ruột. Một số ít trường hợp, tổn thương có dạng hơi gồ lên trong lòng ruột, xâm nhập vách ruột kèm loét nhỏ ở niêm mạc.

Carcinom của đại tràng phải

Tổn thương ban đầu có dạng nốt nhỏ gồ cao giống như tổn thương của đại tràng trái. Nhưng khi tổn thương phát triển, to dần, sùi lên thành khối dạng bông cải hoặc dạng mảng rộng có nhú, chồi vào trong lòng ruột. Hiếm khi có dạng mảng, dạng loét hoặc dạng vòng ăn cứng.

Vi thể:

Dù là loại nào, tổn thương cũng giống nhau. 95% các carcinom đại tràng là carcinom tuyến, trong đó nhiều loại chế tiết chất nhầy. Các chất nhầy thường được tiết ra ngoài tế bào, trong các lòng ống tuyến, trong mô kẽ của vách ruột, làm cho ung thư dễ lan rộng (làm tiên lượng xấu hơn).

Một số loại hiếm là Adenoacanthom (carcinom tuyến có những ổ biệt hoá thành tế bào gai, đặc biệt có ở phần xa của đại tràng), carcinom tế bào nhỏ không biệt hoá xuất nguồn từ tế bào nội tiết (giống như ở ruột non), và carcinom kém biệt hoá, xâm nhập (loại này có thể kèm với các bệnh viêm ruột).

Biểu hiện lâm sàng:

Hầu hết các carcinom ruột đều diễn tiến âm thầm một thời gian lâu trước khi có triệu chứng lâm sàng. Thường thường, vài tháng hoặc vài năm trước khi bệnh được chẩn đoán, bệnh nhân đã có xuất huyết tiêu hoá và / hoặc có thay đổi thói quen của ruột.

Trên lý thuyết, tổn thương ở đại tràng trái thường được phát hiện sớm vì bệnh nhân thường có các triệu chứng rõ ràng như đi cầu ra máu, tiêu chảy, bón và nhờ phương tiện nội soi. Do đó, tiên lượng tốt hơn. Tuy nhiên, ung thư trực tràng và đại tràng sigma lại thường có khuynh hướng xâm nhập hơn nên lại có tiên lượng xấu hơn.

Ung thư của manh tràng và đại tràng phải thường chỉ gây các triệu chứng mơ hồ như yếu sức, mệt mỏi, sụt cân, thiếu máu không thể giải thích.

Điều cần lưu ý là tất cả ung thư đại tràng đều có thể xuất huyết. Do đó, nếu chịu khó tìm máu trong phân (dù có ít) có thể giúp phát hiện bệnh sớm.

Xâm nhập và di căn:

Ung thư đại tràng lan rộng bằng xâm nhập trực tiếp đến các cấu trúc lân cận, bằng di căn qua đường limphô và đường máu.

Các nơi dễ bị di căn là hạch vùng, gan, phổi, xương, phúc mạc, não. Nếu tính chung, 25 đến 30% bệnh nhân được phẫu thuật vì ung thư đại tràng đã có di căn.

Chẩn đoán:

Có nhiều phương tiện chẩn đoán: xét nghiệm tìm máu trong phân, soi hậu môn, nội soi đại tràng sigma, nội soi đại tràng, X quang đại tràng có cản quang kép, cắt lớp điện toán.

Ung thư đại tràng cũng có sản xuất ra một loại kháng nguyên u có thể tìm thấy trong máu. Đó là kháng nguyên phôi CEA. Lượng CEA (carcino-embryonic antigen) trong huyết thanh có liên quan trực tiếp đến kích thước và độ lan rộng của ung thư. Vì vậy, đối với các tổn thương còn mới, chỉ có 19 đến 40% bệnh nhân có CEA trong máu. Con số này lên tới 100% nếu tổn thương đã cho di căn nhiều. Theo một khảo sát không chọn lọc trước mổ trên các bệnh nhân bị ung thư đại tràng thì tỉ lệ CEA dương tính là 60 - 70%. Có giá trị nhất là dùng CEA để đánh giá và theo dõi bệnh sau khi đã mổ cắt u. Nếu u đã được lấy hết hoàn toàn thì CEA biến mất. Nếu sau đó, CEA dương tính trở lại thì có nghĩa là u có thể tái phát. CEA cũng được dùng để đánh giá hiệu quả của hoá trị.

Nhưng cần nhớ rằng xét nghiệm CEA dương tính cũng có trong ung thư phổi, ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư bàng quang, ung thư tuyến tiền liệt, và một số bệnh khác (như xơ gan do uống rượu, viêm tụy tạng, viêm loét đại tràng).

Tiên lượng:

Tùy thuộc vào độ lan rộng của tổn thương ở ruột, độ lan rộng đến hạch và các nơi khác xa hơn, độ biệt hoá mô học của tổn thương. Tiên lượng chung cho tất cả mọi giai đoạn là 35 - 40% sống thêm 5 năm... Tiên lượng này khá hơn nếu phát hiện và điều trị sớm.

Đánh giá giai đoạn:

Có nhiều cách đánh giá giai đoạn. Trong đó có bảng phân loại của Dukes biến đổi và của AJC (American Joint Committee) được sử dụng nhiều hơn cả.

Bảng:  Bảng phân loại Dukes biến đổi cho carcinom đại tràng, kèm tiên lượng (theo Astler VB, Coller FA, 1954).

Phân loại Dukes

% sống 5 năm

Giai đoạn tổn thương

A

100,0

Tổn thương khu trú ở niêm mạc

B1

 

66,6

Tổn thương lan đến lớp cơ và không có di căn hạch

B2

 

53,9

 

Tổn thương lan hết vách ruột nhưng không di căn hạch

C1

 

42,8

 

Tổn thương lan đến lớp cơ và có di căn hạch

C2

 

22,4

Tổn thương lan hết vách ruột và có di căn hạch

D

 

 Có di căn xa

Carcinom tế bào gai

Thường chỉ có ở vùng hậu môn. Tổn thương dạng mảng dày, rồi chồi và loét, giống như carcinom tế bào gai ở nơi khác. Có khuynh hướng xâm nhập tại chỗ, di căn đến hạch vùng rồi di căn xa hơn.

Adenoacanthom

Đã mô tả ở trên, là loại mô học hiếm gặp, có thể có ở bất kỳ nơi nào của đại tràng. Tổn thương có cùng các tính chất sinh học, lâm sàng và đại thể như các carcinom tuyến đại tràng.

Sarcom

Hiếm gặp, gồm sarcom cơ trơn, sarcom mạch máu, sarcom mỡ, sarcom sợi. Tổn thương có dạng khối to như thịt, giống như ở các nơi khác. Có thể cho di căn hạch và di căn xa.

Limphom

Hiếm gặp hơn so với ở dạ dày, ruột non. Có cùng đặc tính với limphom ở dạ dày, ruột non.

Bài viết cùng chuyên mục

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh hạch lympho

Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh u lành phần mềm

Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.

Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

Giải phẫu bệnh phần mềm

Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt

Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết

Giải phẫu bệnh tinh hoàn

Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.

Giải phẫu bệnh dương vật

U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh tuyến giáp

U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.

Giải phẫu bệnh Carcinom vú

Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan

Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.

Giải phẫu bệnh ung thư gan

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật

Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

Giải phẫu bệnh của đường mật

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh u phúc mạc

Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Giải phẫu bệnh của ruột thừa

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày

Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.

Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày

Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.

Một số tổn thương giải phẫu bệnh dạ dày

Môn vị có thể bị nghẽn và tổn thương thực thể, có thể do mất trương lực của dạ dày và ruột trên bệnh nhân bị viêm phúc mạc làm liệt ruột.

Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày

Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.

Giải phẫu bệnh viêm dạ dày

Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày

Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).

Giải phẫu bệnh dạ dày

Các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các tuyến ở những vùng khác nhau của dạ dày. Ngoài ra, các tế bào này nằm rải rác khắp ống tiêu hoá và nếu tính tổng số các tế bào này thì ống tiêu hoá là cơ quan nội tiết lớn nhất cơ thể.

Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn

U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng

Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng

Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung

Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.

Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung

Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh

Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.

Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh

Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.

Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi

Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL

Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung

U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung

Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman

Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc

Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung

Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.

Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung

Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung

Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.

Giải phẫu bệnh bệnh thực quản

Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương

Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.

Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng

Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.

Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm

Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh viêm não màng não

Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.

Giải phẫu bệnh ung thư

Các ung thư  thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.

Giải phẫu bệnh khối u

U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh sốc

Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.

Giải phẫu bệnh đông máu nội mạch lan tỏa

Nhiễm khuẩn gây tổn thương lan tỏa nội mạc mạchh máu (do virút, vi khuẩn Gram âm, Rickettsia, Aspergillosis, Histoplasmosis, ký sinh trùng sốt rét v.v....).

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch

Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu

Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết

Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.

Giải phẫu bệnh phù

Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.

Giải phẫu bệnh viêm lao

Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.

Giải phẫu bệnh viêm giang mai

Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm

Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.

Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm

Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán (  ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).

Tổn thương cơ bản của tế bào và mô

Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh

Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng

Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.

Lịch sử giải phẫu bệnh

Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.