Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

2012-11-25 11:21 AM

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Bản chất cục huyết tắc

Có thể hình thành từ bất kỳ vật lạ nào không hòa tan trong máu (như khí hơi, dịch lỏng, hỗn dịch, vật rắn...). Các cục huyết tắc thường có hình dạng, kích thước khác nhau, đơn độc hoặc nhiều ổ, xảy ra đồng thời hoặc kế tiếp nhau. Có thể là (a) nội tạo, hình thành ngay trong cơ thể người bệnh. Đa số (9/10 trường hợp) là những mảnh huyết khối bong rời khỏi vách mạch, hiếm hơn là những cục xơ vữa, bóng hơi, giọt mỡ (b) ngoại tạo, hiếm gặp, như: vi khuẩn, nấm, rách tĩnh mạch làm không khí lọt vào dòng máu, tai biến khi truyền dịch hoặc khi đưa ống thông vào cơ thể, những mảnh nhỏ tơ sợi do chọc kim qua quần áo ở những người nghiện ma túy (c) những tế bào bình thường hoặc bệnh lý lang thang trong cơ thể rồi định vị trong các vi mạch (nhất là phổi, gan) sau đó tự tiêu hoặc tồn tại và phát triển nhân lên quá nhiều. Thí dụ như ở phụ nữ mang thai rồi chết do tai biến, có thể tìm thấy những nguyên bào nuôi cố định trong vi mạch phổi hoặc như các tế bào nội mạc tử cung di chuyển trong máu rồi gây lạc nội mạc tử cung.

Huyết tắc có thể di chuyển theo 3 cách

(1) trực tiếp: cục huyết khối đi theo tĩnh mạch chủ dưới, qua tâm nhĩ phải, tâm thất phải rồi vào động mạch phổi để cố định tại đây hoặc tại một nhánh nhỏ. Hoặc cục huyết tắc hình thành từ một mảng sùi của van hai lá hoặc từ mảng xơ vữa đến cố định tại một động mạch ngoại vi hoặc tại động mạch nhỏ của tạng hoặc chi. Tóm lại, cục huyết tắc của hệ tĩnh mạch tuần hoàn lớn sẽ lấp động mạch của tuần hoàn nhỏ hoặc cục huyết tắc từ hệ tim - động mạch của hệ tuần hoàn lớn sẽ ngưng tại đó và lấp động mạch của hệ tuần hoàn lớn.

(2) huyết tắc ngược dòng. Huyết tắc rời khỏi một tĩnh mạch của hệ tuần hoàn lớn để lấp kín một tĩnh mạch của hệ tuần hoàn lớn. Trường hợp hiếm như vậy chỉ xảy ra khi hệ động mạch phổi bị “chập mạch” do dị tật tim (thông liên nhĩ hoặc liên thất) hoặc do lỗ dò tĩnh - động mạch.

(3) huyết tắc thụt lùi: rất hiếm gặp. Dòng máu chảy của hệ tuần hoàn lớn có thể bị ngược lùi do cơn ho mạnh, táo bón, v.v... khi đó một huyết tắc ở vùng chậu có thể bị đẩy ngược lên tĩnh mạch chủ dưới rồi nhập vào tĩnh mạch thận.

7.3. Huyết tắc có thể gây nhiều hậu quả

(1) cơ học: lấp kín động mạch hoặc tĩnh mạch có thể dẫn đến hoại tử thiếu máu cả vùng rộng lớn.

(2) sinh lý bệnh: huyết tắc đột ngột có thể làm co mạch gây tâm trạng lo âu hồi hộp hoặc chết đột ngột.

(3) tạo huyết khối ở vùng lấp tắc

(4) huyết tắc nhiễm khuẩn thường hình thành từ một huyết khối cục đã sẵn chứa vi khuẩn gây bệnh, xuất nguồn từ mảng sùi viêm nội tâm mạc hoặc từ vùng viêm tĩnh mạch. Khi ngưng chuyển, các vi khuẩn này phát triển để tạo nên những ổ mủ thứ phát (ổ áp xe di căn) thường gặp trong các bệnh nhiễm khuẩn mủ huyết. Những ổ tổn thương này có thể làm tách bong lớp áo chun của các động mạch vừa hoặc nhỏ và (dưới tác động của dòng máu) sẽ tạo nên những phồng mạch nhiễm khuẩn hoặc nhiễm nấm.

Các dạng huyết tắc

Phần lớn các huyết tắc đều là biến chứng của huyết khối, một số ít các trường hợp là do xơ vữa, khí hơi, mỡ...

Huyết tắc do huyết khối. Các huyết tắc động mạch thường xuất nguồn từ huyết khối của buồng tim (60% các trường hợp từ tâm thất trái, thứ phát sau nhồi máu cơ tim và 10% từ tâm nhĩ do thấp tim). Cũng có thể xuất nguồn từ các cục huyết khối của những mảng loét xơ vữa, ổ phồng động mạch, viêm nội tâm mạc vi khuẩn, các van tim nhân tạo.

Huyết tắc phổi thường do huyết khối từ các tĩnh mạch lớn sâu của chi dưới (như vùng đùi, chậu, khoeo chân) hiếm hơn là do huyết khối từ tĩnh mạch nông (kèm rãn tĩnh mạch) ở vùng cơ bắp chân hoặc tĩnh mạch vùng chậu (quanh buồng trứng, tử cung v.v..), tùy kích thước một huyết tắc có thể lấp một động mạch phổi lớn hoặc hiện diện ở các nhánh nhỏ động mạch phổi. Khoảng 60 - 80% các huyết tắc phổi (do kích thước quá nhỏ) đều không gây triệu chứng lâm sàng rõ rệt. Tuy nhiên, đôi khi có thể gây tử vong đột ngột, suy tim (phải hoặc toàn bộ) hoặc gây tăng huyết áp phổi.

Huyết tắc mạch máu thường gây nhồi máu ở chi dưới (70% các trường hợp), não (10% ở mạc treo ruột, thận, lách), chi trên (8%).

Huyết tắc xơ vữa. hình thành từ mảng xơ vữa, huyết khối tiểu cầu và huyết khối hỗn hợp đều có thể di chuyển và tạo nên huyết tắc động mạch. Đôi khi từ mảng xơ vữa có loét động mạch chủ, cục xơ vữa (gồm những tinh thể cholesterol, ưa acid, giàu đại bào và muối canxi) có thể bong ra để lấp tắc động mạch ngoại vi (đặc biệt khi lòng mạch ở đây đã bị hẹp do xơ vữa) như mạch não, thận, tụy, chi dưới...Nếu nhỏ và ít, các cục huyết tắc xơ vữa này có thể không biểu hiện lâm sàng nhưng cũng có thể gây suy tuần hoàn và tạo ra hoại tử thiếu máu nặng. Tình trạng này xảy ra trong 50% các trường hợp tắc động mạch não sau và các nhánh của động mạch này.

Huyết tắc khí hơi. là tình trạng không khí hoặc khí hơi xâm nhập vào mạch máu, thường khó phát hiện vì đó là một khoảng chân không trong lòng mạch và chỉ được chẩn đoán khi đã gây hậu quả (như hoại tử thiếu máu nhiều ổ, tại mô não, xương v.v...). tuy nhiên những cục huyết tắc khí hơi nhỏ có thể nhận thấy ở mạch máu võng mạc (khi khám đáy mắt). Hoặc những bóng khí hơi có thể lắng đọng trong các khoang tim, nhất là ở tim phải, làm máu có dạng bọt và được chẩn đoán khi tử thiết (phát hiện khi cắt mở bao tim dưới nước). Huyết tắc khí hơi có thể do (1) không khí (2) khí nitrogen.

(1) huyết tắc không khí có thể xảy ra khi (i) sinh đẻ hoặc xảy thai: không khí tràn ngập vào các xoang tĩnh mạch bị rách vỡ do cơn co tử cung (ii) truyền máu: không khí tràn vào tâm thất phải và tạo nên hỗn hợp dịch, lấp tắc tuần hoàn và động mạch phổi. (iii) phẫu thuật lồng ngực: áp lực âm tính trong lồng ngực sẽ đẩy không khí vào tĩnh mạch cảnh, hiện tượng này không xảy ra ở các hệ tĩnh mạch khác vì các mạch này (nhờ các van tĩnh mạch) được ngăn cách với áp lực âm tính đó.

Những trường hợp huyết tắc không khí đều có thể gây sốc hoặc tử vong đột ngột do suy tim không bù trừ lúc khí tràn ngập buồng tim (huyết tắc tĩnh mạch) hoặc thiếu máu hệ thần kinh trung ương (huyết tắc động mạch)

(2) Huyết tắc khí nitrogen. Đây là bệnh giảm áp suất, có thể xảy ra ở những người thợ lặn sâu dưới nước hoặc ở những công nhân làm việc trong các giếng chìm khí ép (ketxông). Khi cơ thể hít không khí dưới áp lực cao (ở độ sâu hoặc độ cao), một lượng lớn khí chủ yếu là oxygen và nitrogen được hòa tan trong máu và luôn cân bằng với mô. Nếu việc giảm thiểu áp lực đó quá đột ngột, những khí hơi đã cân bằng này sẽ thoát ra ngoài: oxy nhanh chóng được máu hấp thụ còn nitrogen lại không được hấp thụ nên dễ dàng tạo ra các cục bóng hơi gây nên nhiều huyết tắc trong mạch và mô.

Tình trạng bệnh là do tiểu cầu kết dính vào cục bóng hơi gây nhiều hậu quả tai hại (như huyết khối đông máu nội mạch lan tỏa, thiếu máu vi mạch, hoại tử mô não, phổi, cơ v.v..). Bệnh giảm áp suất cũng có thể xảy ra ở những vận động viên leo núi cao, hành khách máy bay (khi có biến đổi áp suất đột ngột).

Huyết tắc mỡ. Bao gồm các tế bào mỡ, những mảnh tủy xương tạo huyết, các giọt mỡ tự do trôi theo các nhánh động mạch phổi ở các bệnh nhân bị chấn thương (đặc biệt có gãy nhiều xương), những giọt mỡ trong hệ tuần hoàn lớn (ở não, thận, nhãn cầu, da...). Có thể gặp 2 hiện tượng: (1) huyết tắc mỡ tiềm ẩn, tự do hoặc trong tế bào, không gây biến đổi tuần hoàn chức năng hoặc thực thể (2) hội chứng huyết tắc mỡ: ngoài những cục huyết tắc tự do hoặc trong tế bào, còn thấy những tổn thương mô lan tỏa, những rối loạn sinh học và những biến đổi phức tạp trong chuyển hóa lipid.

* Tổn thương vi thể: có thể nhận thấy trong lòng mạch những tế bào mỡ hoặc mô tủy xương tạo huyết kèm mảnh vụn xương. Trên các mẫu mô thông thường, các cục huyết tắc mỡ tự do thường không đặc thù mà chỉ biểu hiện dưới dạng những khoang nhỏ rỗng, dài hoặc tròn, trong lòng các vi mạch hoặc động mạch nhỏ, tạo nên khối lắng đọng nhiều hồng cầu ở nội mô. Chỉ chẩn đoán dương tính khi nhuộm đặc biệt chất mỡ (với phẩm soudan III, acid osmic). Ở bệnh nhân có hội chứng huyết tắc mỡ, có thể phát hiện huyết tắc qua chọc sinh thiết thận hoặc sinh thiết da: các tế bào nội mạc thường bị thoái hóa do kế cận hoặc tiếp cận với cục huyết tắc. Cũng ở những bệnh nhân đó, tại nơi gần hoặc xa cục huyết tắc, thấy có xuất dịch, phù, chảy máu do thoát mạch hoặc rách mạch, nhiều khối tơ huyết vi thể kèm thấm nhập mô bào. Tùy theo vị trí, những tổn thương đó có thể gồm viêm hốc phổi xuất dịch và chảy máu từng ổ nhỏ hoặc đám lớn ở phổi, huyết tắc ở vi mạch cầu thận kèm thoái hóa và thấm nhập lipid tại lớp thượng mô ống lượn (có thể gây lipid - niệu rõ rệt). Cũng có thể thấy nhiều ổ mất myelin (do huyết tắc mỡ) ở hệ thần kinh trung ương và võng mạc.

* Tổn thương đại thể: Hình ảnh đại thể của huyết tắc mỡ không có tính đặc hiệu: các tạng và mô bị tổn thương có nhiều vùng chảy máu dưới dạng những chấm nhỏ hoặc đám lớn. Có 2 vị trí chảy máu đặc biệt: những chấm huyết (petechia) dưới kết mạc (dấu hiệu xấu) thường kèm những xuất huyết và xuất dịch trắng ở đáy mắt (do thoái hóa myelin của võng mạc), ban xuất huyết (purpura) ở phần trước trên vùng ngực cổ, thường xuất hiện muộn so với những triệu chứng chức năng .

* Biểu hiện lâm sàng: thường có khoảng cách tự do trong vài giờ đến 2 - 3 ngày, kể từ lúc bệnh đột phát đến khi có hội chứng huyết tắc mỡ (bao gồm sốt đột ngột, suy hô hấp, trụy tim mạch, ban xuất huyết kèm những dấu hiệu thần kinh tâm lý như nhức đầu, kích động, sợ hãi, ám ảnh). Trong khoảng 80% trường hợp, nguyên nhân thường là chấn thương, gãy xương (một ổ hoặc nhiều ổ), gãy thân xương dài (như xương đùi), hoặc gãy xương sườn (sau đợt xoa bóp tim ngoài lồng ngực quá mạnh) hoặc do dập rách mô liên kết - mỡ hoặc do phẫu thuật chỉnh hình, thay khớp vùng gối (xương bánh chè). Những trường hợp khác đều không do chấn thương: tiêm tĩnh mạch chất dầu, (do tai biến hoặc do thuốc) hoặc do thủ thuật lấy thai, do chụp mạch limphô, do tiêm hỗn dịch có lipid, bỏng sâu rộng, do nhiễm khuẩn mô mỡ, do thoái hóa mỡ kèm hoại tử (nghiện rượu hoặc nhiễm độc phosphor, tetracylin v.v....) do sốc phản vệ, do bệnh tiểu đường không bù trù.

* Sinh lý bệnh học của huyết tắc mỡ: Những cục huyết tắc lipid tràn vào hệ động mạch phổi sẽ theo dòng tuần hoàn lớn gây những tổn thương rải rác ở các tạng và mô. Tuy nhiên, ngoài những tác động cơ học, còn có tình trạng đảo lộn đột ngột và sâu sắc trong chuyển hóa lipid. Nhiều hiện tượng kế tiếp nhau xảy ra: huyết tắc mỡ (tự do hoặc trong tế bào) trong các động mạch phổi, tăng lipid máu sau chấn thương làm tăng lắng đọng mỡ ở phổi, các cục lắng đọng này và những cục huyết tắc sẽ bị men lipaza (của phổi) làm thoái giáng (trong khoảng thời gian tự do), sự hiện diện của những acid béo hòa tan không no hoặc no và của những lysophosphatid sẽ gây tác hại tới nội mạc huyết quản và hồng cầu. Như vậy, sau khoảng cách tự do, sẽ có những biểu hiện lâm sàng đặc thù của các tổn thương mạch máu, xuất dịch, chảy máu, thoái hóa myelin, thiếu máu tan huyết kèm những biến đổi sinh học của máu (tăng lipaz huyết thanh, giảm cholesterol máu, hoặc giảm phospholipid máu, mất cân bằng hóa lý, về các lipoprotein huyết tương). Tất cả tác động làm các lipid huyết kết tủa và tập hợp trong khắp cơ thể dưới dạng những hạt lipid tự do gây lấp tắc các vi mạch của hệ tuần hoàn lớn, như vậy, những hạt đó không phải là huyết tắc vượt qua vòng tuần hoàn phổi mà thực sự là những kết tủa lipid tại chỗ.

Một quá trình tương tự cũng xảy ra trong hội chứng huyết tắc mỡ không do chấn thương.

Huyết tắc nước ối. Có thể xảy ra cho 1/50 nghìn trường hợp đẻ thường hoặc có thai sau đặt vòng. Nguyên nhân do tử cung co bóp quá mạnh (hoặc lấp tắc đường âm đạo) làm rách vỡ màng nhau thai và dịch nước ối tràn ngập hệ tuần hoàn máu mẹ. Trong các vi mạch máu, đôi khi ở cả hốc phổi, có nhiều mảnh vụn màng nhau, tế bào manpighi bong rời, lông tơ của phôi thai, kèm chất thromboplastin có tác động kích thích đông máu nội mạch lan tỏa. Cũng có nhiều yếu tố dịch thể (như prostaglandin) tràn ngập vào dịch nước ối gây co thắt tuần hoàn tim phổi dẫn đến suy giảm chức năng tim phổi. Bệnh gây tỷ lệ tử vong cao (85% các trường hợp) sau những đợt khó thở, tím tái, co giật, phù phổi rồi hôn mê.

Huyết tắc ung thư. Các tế bào ác tính có thể xâm nhập dòng huyết lưu và gây huyết tắc (như ở tĩnh mạch chủ dưới do carcinom thận, ở tĩnh mạch gan do carcinom gan) hoặc gây ổ ung thư thứ phát.

Bài viết cùng chuyên mục

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh hạch lympho

Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh u lành phần mềm

Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.

Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

Giải phẫu bệnh phần mềm

Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt

Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết

Giải phẫu bệnh tinh hoàn

Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.

Giải phẫu bệnh dương vật

U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh tuyến giáp

U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.

Giải phẫu bệnh Carcinom vú

Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan

Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.

Giải phẫu bệnh ung thư gan

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật

Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

Giải phẫu bệnh của đường mật

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh u phúc mạc

Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Giải phẫu bệnh u đại tràng

Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma

Giải phẫu bệnh của ruột thừa

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày

Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.

Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày

Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.

Một số tổn thương giải phẫu bệnh dạ dày

Môn vị có thể bị nghẽn và tổn thương thực thể, có thể do mất trương lực của dạ dày và ruột trên bệnh nhân bị viêm phúc mạc làm liệt ruột.

Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày

Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.

Giải phẫu bệnh viêm dạ dày

Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày

Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).

Giải phẫu bệnh dạ dày

Các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các tuyến ở những vùng khác nhau của dạ dày. Ngoài ra, các tế bào này nằm rải rác khắp ống tiêu hoá và nếu tính tổng số các tế bào này thì ống tiêu hoá là cơ quan nội tiết lớn nhất cơ thể.

Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn

U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng

Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng

Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung

Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.

Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung

Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh

Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.

Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh

Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.

Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi

Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL

Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung

U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung

Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman

Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc

Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung

Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.

Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung

Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung

Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.

Giải phẫu bệnh bệnh thực quản

Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương

Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.

Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng

Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.

Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm

Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh viêm não màng não

Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.

Giải phẫu bệnh ung thư

Các ung thư  thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.

Giải phẫu bệnh khối u

U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh sốc

Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.

Giải phẫu bệnh đông máu nội mạch lan tỏa

Nhiễm khuẩn gây tổn thương lan tỏa nội mạc mạchh máu (do virút, vi khuẩn Gram âm, Rickettsia, Aspergillosis, Histoplasmosis, ký sinh trùng sốt rét v.v....).

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch

Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu

Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết

Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.

Giải phẫu bệnh phù

Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.

Giải phẫu bệnh viêm lao

Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.

Giải phẫu bệnh viêm giang mai

Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm

Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.

Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm

Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán (  ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).

Tổn thương cơ bản của tế bào và mô

Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh

Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng

Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.

Lịch sử giải phẫu bệnh

Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.