Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối

2012-11-25 11:17 AM

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Huyết khối là sự hình thành cục máu trong lòng mạch, gọi là cục huyết khối.

Lúc bình thường, máu lưu thông trong hệ mạch dưới dạng dịch lỏng

Tính chất đông máu sẽ giúp ngưng chảy máu (khi xảy ra). Nhưng khi quá trình đông máu bị cản trở, sẽ có điều kiện thuận lợi cho việc chảy máu, ngược lại, khi đặc tính đông máu ở mức quá cao, sẽ gây đông máu bất thường (cả chảy máu và đông máu bất thường) đều nguy hại cho tính mạng người bệnh .

Huyết khối có thể hình thành ở khoang tim, trong động mạch, tĩnh mạch và cả vi mạch.

Có hai dạng :

(1) cục huyết khối lấp, khi bít kín cả một tâm nhỉ hoặc toàn bộ lòng mạch. Thường xảy ra ở các động mạch (theo xuất độ giảm dần) như: động mạch vành, não, đùi, ở nơi vách mạch có tổn thương hoặc trên mảng xơ vữa.

(2) cục huyết khối vách, tạo nên một mảng khối dính vách, thường xảy ra ở buồng tim (nơi ổ nhồi máu cơ tim), ở động mạch chủ (nơi phồng mạch, mảng xơ vữa), hoặc trên van tim (ở các bệnh nhân viêm nội tâm mạc, loạn nhịp tim, ở giai đoạn cuối của ung thư...).

Huyết khối tĩnh mạch thường xảy ra ở chi dưới (90% các trường hợp) ở những vị trí sau (theo xuất độ giảm dần): phần sâu cẳng chân, đùi, khoeo. Cũng có thể thấy huyết khối ở tĩnh mạch chậu, tĩnh mạch buồng trứng và quanh tử cung hoặc ở tĩnh mạch cửa, xoang màng cứng.

Huyết khối mới thường có cấu tạo gồm những sợi tơ huyết kèm tế bào máu

Dựa vào kiểu dáng và thành phần tế bào cấu tạo, có thể phân biệt :

(1) huyết khối đỏ, hiếm gặp, là cục máu đông lớn, gồm mạng lưới tơ huyết chứa hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Có màu đỏ tím, giống như cục máu hình thành do đông máu đột ngột in vitro (trong ống nghiệm). Loại này thường gặp trong bệnh trĩ (sau khi tiêm thuốc hóa xơ để điều trị tĩnh mạch giãn), trong các huyết khối tĩnh mạch do nhiều nguyên nhân khác nhau.

(2) huyết khối trắng, thường gặp hơn, có kích thước nhỏ, nhầy và trong suốt, rất dính, gồm tập hợp những tiểu cầu với những sợi tơ huyết và ít bạch cầu. Các tiểu cầu tự hoại rất nhanh để hình thành nên một khối ưa toan, giống như một nút tiểu cầu cầm máu.

(3) huyết khối hỗn hợp, rất thường gặp, có mật độ chắc nhưng dễ mủn, gồm 3 phần: (i) phần đầu, gồm tiểu cầu dính chặt vào vách mạch (ii) phần thân, cắm thẳng góc với vách mạch (nếu là huyết khối lấp) hoặc song song với vách mạch (nếu là huyết khối vách), gồm mảng tiểu cầu trắng (gọi là vạch Zahn) màu trắng, xen kẽ với vạch đỏ (sợi tơ huyết đông đặc) (iii) phần đuôi là cục máu đông, màu đỏ thuần nhất, mỏng mảnh, không dính vách, bơi lội trong lòng mạch và rất dễ bong rời theo chuyển động dòng huyết lưu.

(4) cục máu khi hấp hối: trước lúc tử vong, vách động mạch chun giãn đẩy hết máu vào khoang tim và lòng tĩnh mạch. Vì vậy, hiện tượng tự tiêu các tế bào máu và tiểu cầu đã giải phóng các yếu tố đông máu tạo nên cục máu khi hấp hối, màu đỏ lẫn chút trắng, nhưng không có vạch Zahn, hơi giống cục máu đông.

(5) cục máu sau tử vong, đôi khi giống cục máu khi hấp hối, có 2 lớp: lớp đỏ gồm những hồng cầu (ở phía dưới) và lớp vàng trắng như mỡ gà (ở phần trên nông) gồm huyết tương đông đặc. Hình dạng 2 màu này (khá rõ trong các động mạch lớn và khoang tim) là do hồng cầu đã lắng đọng sau khi ngưng dòng tuần hoàn và trước khi huyết tương đông đặc (sau tử vong). Điều khác biệt với huyết khối luôn hình thành in vivo (ở người sống) (dính vách và mềm nhũn) là các cục máu khi hấp hối và cục máu sau tử vong thường không dính vách có kích thước nhỏ hơn mạch máu.

Huyết khối thường tiến triển theo nhiều hướng sau

Chuyển thành mô: Cục huyết khối thường hóa sợi giống tiến triển của một ổ viêm. Thoạt đầu, từ nơi dính vào nội mạc, các mô bào, sợi bào của vách mạch xâm nhập vào cục huyết khối, nhiều đại thực bào ăn hemosiderin (của máu tự tiêu) rồi những sợi võng xuất hiện song song với trục mạch, các tế bào liên kết với vách mạch tăng sản để tạo nên những vi mạch mới. Lúc này cục huyết khối dính chắc vào vách mạch và chuyển dạng thành một khối mô liên kết - huyết quản. Nếu là huyết khối vách, tất cả sẽ được phủ lớp nội mô tân tạo, một vách mạch mới được hình thành và dòng huyết lưu lại tiếp tục. Nếu là huyết khối lấp, cả khối sẽ bít kín lòng mạch. Tuy nhiên, đôi khi tác động của chất protein tiểu cầu (gọi là thrombosthenin) sẽ làm cục huyết khối co nhỏ và chuyển dạng thành huyết khối vách. Các vi mạch tân tạo của cục huyết khối (đã chuyển thành mô) có thể hình thành nhiều nhánh nối thông với nhau và dòng huyết lưu vẫn có thể chảy qua cục huyết khối lấp. Nhờ những ống nhỏ vi mạch giữa lòng huyết khối, hiện tượng tái lưu thông máu này giúp hồi phục một phần chức năng của dòng huyết lưu. Cục huyết khối đã chuyển dạng thành mô cũng có thể ngấm canxi rồi hóa xương. Tình trạng này xảy ra ở các tĩnh mạch có huyết khối và gây hiện tượng viêm tĩnh mạch hóa đá (phlébolithe) xảy ra trong bệnh giãn tĩnh mạch và bệnh trĩ.

Mềm nhũn dạng mủ vô khuẩn: Hiện tượng này xảy ra đối với cục huyết khối lớn chứa nhiều bạch cầu (thường ở trong khoang tim). Quá trình chuyển thành mô xảy ra chậm ; bạch cầu tự hủy và giải phóng những enzym làm loãng tơ huyết, bắt đầu ở vùng trung tâm huyết khối. Lúc này cục huyết khối trở nên mềm nhũn rất dễ vỡ và tách rời cả khối hoặc thành những mảng nhỏ trôi theo dòng huyết lưu.

Mềm nhũn có mủ nhiễm khuẩn: Tình trạng này thường đến sau khi cục huyết khối bị nhiễm khuẩn ngay tức thì trong bệnh cảnh toàn thân hoặc do lan dần từ một ổ nhiễm khuẩn. Các mầm bệnh làm cho cục huyết khối hóa mủ và có thể bong rời làm vi khuẩn lan rộng gây tình trạng máu bị nhiễm khuẩn mủ.

Di chuyển: Cục huyết khối có thể bong rời một phần hoặc toàn bộ từ khoang tim, lòng tĩnh mạch hoặc động  mạch  và  di  chuyển  theo đường máu đến một  vùng khác trong cơ thể tạo nên cục huyết tắc. Cục huyết khối dễ di chuyển có đặc điểm: ít dính vào vách mạch, thời gian tồn tại ngắn, mật độ mềm nhũn dạng mủ hoặc có mủ... Thường do nguyên nhân cơ học : lực đẩy của dòng huyết lưu, tăng áp lực tĩnh mạch đột ngột (sau cơn ho mạnh) hoạt động nhanh của chi ...

Tan huyết khối: Thành phần tơ huyết trong cục huyết khối có thể bị tiêu tan nhanh dưới tác động của plasmin và giải phóng nhiều chất thoái biến. Quá trình tiêu fibrin như vậy thường xảy ra ở cục huyết khối mới hình thành khoảng 4 - 5 ngày và bị mềm loãng trước khi chuyển thành mô. Điều đó dễ xảy ra khi điều trị với những chất hoạt tác plasminogen, thí dụ như urokinaza hoặc streptokinaza.

Những yếu tố gây huyết khối

Yếu tố quyết định nhất là tổn thương nội mạc kèm 2 yếu tố phụ trợ khác là những biến đổi về đông máu và huyết động học.

Các tế bào nội mạc chứa nhiều chất tiêu tơ huyết và thường được che phủ, bảo vệ nhờ: (i) chất không ẩm ướt mang những đặc tính lý hóa riêng (ii) điện tích bề mặt có vai trò ngăn cản hiện tượng dính các tế bào máu. Ngược lại, lớp màng đáy nội mạc và lớp mô liên kết đều có khả năng tạo huyết khối khi nội mạc thương tổn. Khả năng này cần thiết và hữu ích để cầm máu nhưng cũng gây nguy hiểm cho vách mạch. Lớp nội mạc có cấu trúc mỏng mảnh, rất dễ bị hư hại: bong rời hoặc có những kẽ nứt khi các tế bào nội mạc co thắt. Tổn thương nội mạc có thể do nhiều nguyên nhân: tác động của chấn thương, phẫu thuật, tia xạ ion hóa, vô oxy, độc tố vi khuẩn, histamin, những chất từ bạch cầu, tiểu cầu, phức hợp kháng nguyên - kháng thể, những thay đổi thoái hóa ở các lớp áo mạch (như xơ vữa động mạch, xâm nhập ung thư v.v...). Tất cả đều dẫn đến hiện tượng dính bám các tiểu cầu ở nơi tổn thương nội mạc làm cho bề mặt nội mạc bị ẩm ướt và có nhiều biến đổi điện tích.

Tăng đông máu: tình trạng này có thể:

(a) Nguyên phát: do các rối loạn gen tại những protein tạo đông máu. Thí dụ: thiếu hụt di truyền những chất chống đông như antithrombin III, protein C hoặc protein S. Những bệnh nhân này ở tuổi trưởng thành dễ có huyết khối tĩnh mạch hoặc huyết khối - huyết tắc. Hiếm hơn là do rối loạn hệ tiêu fibrin.

(b) Thứ phát, do những nguyên nhân như hội chứng hư thận, chấn thương nặng, chảy máu nặng, thiếu nước (làm tăng đậm độ máu), sinh đẻ chậm, suy tim (gây ứ trệ dòng huyết lưu), bệnh ung thư lan rộng (chế tiết nhiều sản phẩm tạo đông máu), do dùng thuốc ngừa thai (làm tăng nồng độ fibrinogen huyết tương và prothrombin). Tình trạng nghiện hút thuốc lá, béo phệ, nhiễm khuẩn nặng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tế bào máu kết dính.

Rối loạn huyết động học. Trong điều kiện bình thường, dòng huyết lưu thường nhanh, nhất là ở động mạch: ở trục gồm những tế bào máu (chảy nhưng vẫn xa rời nhau) và ở ngoại vi chỉ có huyết tương tiếp cận vách mạch. Khi máu ứ đọng, dòng huyết lưu chậm, sẽ tạo điều kiện hỗ trợ cho huyết khối: các tế bào máu sát gần nhau nên dễ dính tiểu cầu và hồng cầu chạm vách mạch, tình trạng vô oxy tác động đến các tế bào nội mạc và gây dính tiểu cầu vào vách đồng thời giải phóng những chất tạo huyết khối. Những nguyên nhân gây ứ máu gồm : chèn ép tĩnh mạch, suy tim, tổn thương vách mạch, cơ thể bất động quá lâu, dòng máu về tim bị cản trở v.v...

Có 3 biến đổi làm dòng huyết lưu bị rối loạn:

(1) ở tại nơi mạch phân chia nhánh và ở nơi hai mạch đổ thẳng góc vào nhau. Tại đó thường có những dòng xoáy, dòng máu ngược làm trục hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu va chạm vách và dễ dính vào đó (khi vách mạch có tổn thương nhỏ) tạo nên một huyết khối vách có màu trắng.

(2) vật cản từ vách mạch nhỏ vào lòng mạch: mảng xơ vữa, mảng sùi van tim...

(3) ở những nơi mạch máu giãn bất thường (phồng mạch túi, trĩ, giãn tĩnh mạch...) các lớp tơ huyết và máu đông thường lắng đọng dần làm vách dày và lòng mạch có thể bị hẹp nhỏ.

Quá trình hình thành huyết khối: Trong việc cầm máu tự nhiên và hình thành huyết khối, tiểu cầu có vai trò rất quan trọng. Đó là những tế bào nhỏ khoảng 2 micromet đường kính, không nhân nên dễ biến dạng và di chuyển, bào tương mang nhiều thụ thể glycoprotein thuộc nhóm integrin đồng thời có nhiều hạt đặc hiệu dưới 2 dạng: (i) hạt alpha chứa fibrinogen, fibronectin, yếu tố tăng trưởng từ tiểu cầu (PDGF), yếu tố chuyển dạng tăng trưởng beta (TGF - beta)... (ii) những hạt delta chứa nhiều nucleotid adenin (ADP và ATP), nhiều ion canxi hóa, histamin, serotonin và epinephrin.

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch (bao gồm collagen, proteoglycans, fibronectin và nhiều glycoprotein tạo kết dính tế bào). Đây là giai đoạn khởi đầu của quá trình cầm máu, trong đó tiểu cầu có 3 phản ứng: (1) kết dính và biến dạng (2) chế tiết và (3) hoạt tác:

(1) kết dính và biến dạng. Thoạt tiên, tiểu cầu có nhiều chân giả bám vào nơi tổn thương nội mạc và dính kết tại đó, nhờ tác động của một yếu tố huyết tương gọi là yếu tố von Willebrand (vWF) (tình trạng thiếu yếu tố này gọi là bệnh Willebrand, do thiếu hụt thể nhiễm sắc tự thân, kiểu di truyền trội, gây hội chứng chảy máu ở niêm mạc). Yếu tố vWF có vai trò như một cầu nối phân tử giữa tiểu cầu và collagen, qua trung gian các thụ thể glycoprotein.

Sau khi bám vách, các tiểu cầu dính nhau nhờ thêm chất ADP (do bản thân chúng và tế bào nội mô tổn thương chế tiết). Lúc này, sự kết dính khả hồi tạo nên một cục tiểu cầu có nhiều kẽ hở giúp máu vẫn lưu thông qua được. Đây là cục cầm máu nguyên thủy.

(2) chế tiết các hạt alpha và beta

(3) hoạt tác, làm các tiểu cầu tập hợp nhiều hơn nhờ 3 kích tố là ADP, thromboxan A2 (TxA2) và thrombin. Chất thrombin thúc đẩy tiểu cầu tan hủy nhanh hơn. Những sợi fibrin gồ ghề kết dính (không khả hồi) các tiểu cầu chặt chẽ với nhau. Sau đó các tiểu cầu co lại (nhờ chất actomyosin của bào tương) chất thrombin thúc đẩy tiểu cầu tan hủy nhanh hơn đồng thời chuyển fibrinogen thành fibrin để kết dính chặt chẽ các tiểu cầu với nhau. Đây là sự kết dính không khả hồi tạo thêm tập họp nhiều hồng cầu, bạch cầu và hình thành cục cầm máu thứ phát. Cứ như vậy, tiếp tục nhiều hơn để tạo nên cục máu hỗn hợp.

Các bệnh gây huyết khối bao gồm:

(1) các thời kỳ hậu phẫu hoặc hậu sản thường dễ gây huyết khối do các động tác phẫu thuật, chấn thương, chảy máu do thiếu máu tăng tiểu cầu, tăng đông máu, sốc, bất động quá lâu, ứ máu...

(2) xơ vữa động mạch thường gây tổn thương nội mạc làm hẹp lòng mạch (do các mảng vữa dày cứng) và tạo nên những biến đổi dòng huyết lưu. Xơ vữa và huyết khối đều là nguyên nhân gây lấp động mạch và dẫn đến nhiều hậu quả tai hại (như nhồi máu cơ tim, nhũn não, hoại tử khô các chi...)

(3) các bệnh tim: (a) ở những bệnh nhân suy tim, do tư thế bất động kéo dài làm chậm dòng huyết lưu giảm lượng máu từ tâm thất, ứ máu tĩnh mạch, giảm thiểu huyết áp, độ đặc máu cao, đa hồng cầu thứ phát, nên dễ gây huyết khối tĩnh mạch (b) trong các bệnh van tim, cũng dễ gây huyết khối ở tiểu nhĩ, tâm nhĩ. Huyết khối ở tâm nhĩ trái (nơi thượng lưu của hẹp van hai lá) thường dễ xảy ra (trong 8/10 trường hợp có loạn nhịp tim hoàn toàn). Huyết khối này có cuống, giống hệt một u nhầy của tim. (c) trong các bệnh viêm nội tâm mạc, huyết khối thường hình thành trên các van tổn thương, tạo nên những mảng sùi, rất dễ bong rời và gây huyết tắc. (d) trong bệnh nhồi máu cơ tim sát nội tâm mạc, thường có huyết khối vách trong buồng tim, nhất là ở tâm thất trái.

(4) trong bệnh ung thư cũng thường thấy huyết khối tĩnh mạch, đặc biệt khi ung thư xảy ra ở hệ tiêu hóa, tụy, ... Huyết khối có thể biểu hiện đầu tiên như một hội chứng cận ung thư và liên quan đến các quá trình giải phóng những chất thoái biến của mô ung thư, tình trạng bất động và thiếu máu của người bệnh.

(5) các giãn tĩnh mạch chi dưới, do máu ứ đọng, cũng dễ gây huyết khối, nhất là khi bất động, sinh đẻ hoặc phẫu thuật.

Bài viết cùng chuyên mục

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh hạch lympho

Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh u lành phần mềm

Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.

Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

Giải phẫu bệnh phần mềm

Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt

Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết

Giải phẫu bệnh tinh hoàn

Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.

Giải phẫu bệnh dương vật

U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh tuyến giáp

U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.

Giải phẫu bệnh Carcinom vú

Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan

Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.

Giải phẫu bệnh ung thư gan

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật

Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

Giải phẫu bệnh của đường mật

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh u phúc mạc

Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Giải phẫu bệnh u đại tràng

Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma

Giải phẫu bệnh của ruột thừa

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày

Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.

Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày

Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.

Một số tổn thương giải phẫu bệnh dạ dày

Môn vị có thể bị nghẽn và tổn thương thực thể, có thể do mất trương lực của dạ dày và ruột trên bệnh nhân bị viêm phúc mạc làm liệt ruột.

Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày

Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.

Giải phẫu bệnh viêm dạ dày

Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày

Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).

Giải phẫu bệnh dạ dày

Các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các tuyến ở những vùng khác nhau của dạ dày. Ngoài ra, các tế bào này nằm rải rác khắp ống tiêu hoá và nếu tính tổng số các tế bào này thì ống tiêu hoá là cơ quan nội tiết lớn nhất cơ thể.

Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn

U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng

Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng

Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung

Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.

Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung

Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh

Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.

Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh

Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.

Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi

Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL

Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung

U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung

Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman

Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc

Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung

Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.

Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung

Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung

Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.

Giải phẫu bệnh bệnh thực quản

Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương

Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.

Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng

Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.

Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm

Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh viêm não màng não

Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.

Giải phẫu bệnh ung thư

Các ung thư  thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.

Giải phẫu bệnh khối u

U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh sốc

Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.

Giải phẫu bệnh đông máu nội mạch lan tỏa

Nhiễm khuẩn gây tổn thương lan tỏa nội mạc mạchh máu (do virút, vi khuẩn Gram âm, Rickettsia, Aspergillosis, Histoplasmosis, ký sinh trùng sốt rét v.v....).

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu

Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết

Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.

Giải phẫu bệnh phù

Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.

Giải phẫu bệnh viêm lao

Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.

Giải phẫu bệnh viêm giang mai

Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm

Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.

Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm

Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán (  ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).

Tổn thương cơ bản của tế bào và mô

Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh

Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng

Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.

Lịch sử giải phẫu bệnh

Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.