Chế độ ăn cho trẻ suy dinh dưỡng

2014-05-30 03:19 PM

Suy dinh dư¬ỡng th¬ờng thấy sau các bệnh nhiễm khuẩn nh¬ư sởi, viêm phổi, tiêu chảy... mà các bà mẹ không biết cách cho ăn khi trẻ ốm nên dễ bị suy dinh dưỡng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đại cương

Suy dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý xảy ra khi cơ thể thiếu các chất dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu protein và năng lượng. Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, hay gặp nhất là ở lứa tuổi từ 6 - 24 tháng. Suy dinh dưỡng thường kèm theo tình trạng dễ nhiễm khuẩn và ngược lại nhiễm khuẩn làm cho suy dinh dưỡng nặng thêm.

Suy dinh dưỡng thực chất không chỉ là tình trạng thiếu hụt protein và năng lượng mà thường là kết hợp thiếu nhiều vi chất dinh dưỡng. Trước đây các y văn thường dùng cụm từ “Suy dinh dưỡng protein- năng lượng” (protein- energy malnutrition) để nhấn mạnh vai trò quan trọng của protein và năng lượng trong căn bệnh này. Ngày nay các y văn chỉ còn dùng danh từ “ Suy dinh dưỡng” (Undernutrition) để chỉ tình trạng trẻ em bị chậm phát triển do thiếu dinh dưỡng.

Suy dinh dưỡng đang là vấn đề sức khoẻ quan trọng và phổ biến của trẻ em ở các nước đang phát triển cũng như  ở nước ta hiện nay.

Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO - World Health Organization) có đến 500 triệu trẻ em bị thiếu dinh dưỡng ở các nước đang phát triển, gây nên 10 triệu tử vong mỗi năm. Mức giảm suy dinh dưỡng không đều ở các vùng sinh thái khác nhau. Có sự liên quan về mức giảm suy dinh dưỡng và mức giảm hộ nghèo lương thực thực phẩm.

Ở Việt nam từ những thập kỷ 90 trở về trước suy dinh dưỡng chiếm tỷ lệ rất cao, khoảng trên dưới 50% (tính theo cân nặng/tuổi). Suy dinh dưỡng nặng như kwashiorkor, marasmus, marasmic kwashiorkor gặp cũng khá nhiều. Nhưng những năm gần đây tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đã giảm. Năm 2002 tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng của trẻ em toàn quốc là 30,1%, chủ yếu là suy dinh dưỡng nhẹ, vừa, suy dinh dưỡng nặng rất ít gặp. Tỷ lệ này cao hơn so với Thái Lan, Indonesia, Philippine, thấp hơn so với Myanmar, Lào, Cămpuchia, Ấn độ, Bangladesh, Nepal. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng quốc gia năm 2004 trẻ em suy dinh dưỡng ở nước ta giảm  xuống còn 26,6%. Từ năm 2000 - 2004 tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm 1,8%/năm, năm 2007 tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở nước ta còn là 21,2% (cân nặng/tuổi), 34% (chiều cao/tuổi).

Nguyên nhân

Ăn uống:

 Chủ yếu là do bà mẹ thiếu kiến thức nuôi con:

Cho ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn, cai sữa sớm dưới 12 tháng đều ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.

Thức ăn sử dụng cho trẻ thường không đảm bảo chất lượng và số lượng theo lứa tuổi.

Nhiễm khuẩn:

Suy dinh dư­ỡng th­ờng thấy sau các bệnh nhiễm khuẩn nh­ư sởi, viêm phổi, tiêu chảy... mà các bà mẹ không biết cách cho ăn khi trẻ ốm nên dễ bị suy dinh d­ưỡng.

Những yếu tố thuận lợi:

Cân nặng lúc đẻ thấp <  2500 g.

Đẻ sinh đôi.

Gia đình đông con.

Mẹ chết hoặc ốm yếu.

Mẹ không có sữa hoặc ít sữa.

Dị tật bẩm sinh.

Nhà ở chật chội thiếu ánh sáng.

Phân loại

Có nhiều cách phân loại các mức độ của suy dinh dưỡng như:

Gomez (1956) thang phân loại này ít được sử dụng vì trẻ còn 90% cân nặng so với quần thể tham khảo vẫn có thể phát triển bình thường nhưng lại bị xếp vào suy dinh dưỡng.

Waterlow (1976) dựa vào hai chỉ tiêu: cân nặng so với chiều cao và chiều cao so với tuổi, dựa vào bảng sau:

Chiều cao so với tuổi

Cân nặng so với chiều cao

> 80%

< 80%

> 90%

Bình thường

Gầy còm

< 90%

Còi cọc

Gầy còm + còi cọc

Thang phân loại của WHO (1981) được dùng thông dụng nhất hiện nay. WHO khuyến nghị coi là suy dinh dưỡng khi cân nặng/ tuổi dưới 2 độ lệch chuẩn (- 2 SD) so với quần thể tham khảo NCHS (National Center for Health Statistics) của Mỹ. Việc sử dụng quần thể tham khảo NCHS được đề nghị sau khi nhận thấy trẻ em dưới 5 tuổi nếu được nuôi dưỡng tốt thì phát triển như nhau.

Từ dưới - 2 SD đến - 3 SD: suy dinh dưỡng nhẹ (độ 1).

Từ dưới - 3 SD đến - 4 SD: suy dinh dưỡng vừa (độ 2).

Từ dưới - 4 SD: suy dinh dưỡng nặng (độ 3).

1 SD tương đương với 10% cân nặng.

Ở suy dinh dưỡng nặng người ta dùng thang phân loại của Wellcome 1970 để phân biệt các thể suy dinh dưỡng.

Cân nặng

% so với chuẩn

Phù

Không

80 - 60

Kwashiorkor

Suy dinh dưỡng

< 60

Marasmic  Kwashiorkor

Marasmus

Biểu hiện lâm sàng

Suy dinh dưỡng bắt đầu từ biểu hiện chậm lớn cho đến các thể nặng là marasmus và kwashiorkor. Trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu, việc nhận biết các thể nhẹ và vừa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Ở các thể nhẹ:

Biểu hiện lâm sàng thường nghèo nàn, chẩn đoán chủ yếu dựa vào các kích thước nhân trắc, như đã trình bày ở phần phân loại.

Ở các thể nặng:

Thể phù (kwashiorkor): cân nặng còn 60 - 80 % mặc dầu có phù. Trẻ phù từ chân rồi đến mắt và có thể phù to toàn thân. Trên da có thể xuất hiện những đám lấm chấm sắc tố màu nâu, sau đó bong ra, dễ bị trợt loét và bị nhiễm khuẩn. Trẻ thờ ơ với ngoại cảnh, hay quấy khóc, ăn kém, ỉa phân sống, lỏng, nhầy mỡ. Thể kwashiorkor ít gặp hơn thể marasmus; thường do chế độ ăn quá nghèo protein còn glucid tạm đủ chế độ ăn bổ sung chủ yếu dựa vào gạo, ngô, khoai, sắn.

Thể gầy đét (marasmus): cân nặng còn < 60% cơ thể gày đét chỉ còn da và xương “Only skin and bones” và trẻ có bộ mặt giống ông già “old man‘s face ”. Đây là thể hay gặp nhất. Đó là hậu quả của chế độ ăn thiếu cả nhiệt lượng và protein hoặc do cai sữa quá sớm, hoặc thức ăn bổ sung không hợp lý; hoặc do tình trạng vệ sinh kém gây tiêu chảy, trẻ ăn càng kém và vòng luẩn quẩn bệnh lý xảy ra.

Tinh thần mệt mỏi, thờ ơ với ngoại cảnh, trẻ có thể thèm ăn hoặc chán ăn, hay bị rối loạn tiêu hoá, ỉa phân sống, lỏng.

Thể phối hợp (marasmus - kwashiorkor): cân nặng < 60%, cơ thể gày đét nhưng lại có phù, thường phù ở hai mu chân, trẻ kém ăn và hay bị rối loạn tiêu hoá.

Ở trẻ thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng thường thiếu các chất dinh dưỡng khác như thiếu sắt, magiê, kali, kẽm, các acid béo chưa no, các vitamin và nhiều chất khác. Điều đó làm cho bệnh cảnh lâm sàng của suy dinh dưỡng protein - năng lượng thêm phong phú và đa dạng. Đặc biệt thiếu vitamin A và bệnh khô mắt thường gặp ở trẻ suy dinh dưỡng có thể dẫn tới nhuyễn giác mạc và hỏng mắt. Công trình nghiên cứu của Viện Bảo vệ sức khoẻ trẻ em (1982 - 1990) cho thấy thiếu vitamin A của trẻ suy dinh dưỡng là 16,3%, tỷ lệ mù một hoặc hai mắt chiếm 9,1%. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Chò (1991 - 1992)  cho thấy, trẻ suy dinh dưỡng nặng điều trị tại Viện Bảo vệ sức khoẻ trẻ em có biểu hiện thiếu vitamin A khô mắt là 20%, nhuyễn giác mạc cả hai mắt là 1,4%.

Các tổn thương bệnh lý và rối loạn chuyển hoá

Tổn thương bệnh lý:

Gan: ở trẻ kwashiorkor gan thường bị thoái hoá mỡ, tuy nhiên sự thoái hoá này có thể phục hồi nếu được điều trị đúng và kịp thời.

Cơ quan tiêu hoá: các tế bào của tuyến tuỵ và niêm mạc ruột bị teo. Ở trẻ nặng không có trường hợp nào nhung mao nguyên vẹn, hình ảnh tổn thương đa số là teo nhung mao gần hoàn toàn. Hàm lượng các men tiêu hoá giảm gây ảnh hưởng cho việc hấp thu các chất dinh dưỡng. Các biến đổi hình thái và chức năng ống tiêu hoá kèm theo sự tăng sản các loại vi khuẩn là nguyên nhân của tình trạng tiêu chảy hay gặp ở trẻ suy dinh dưỡng.

Hệ thống tim mạch: cơ tim có thể bị teo, cung lượng tim giảm. Ở các trường hợp nặng, các đầu chi lạnh và tím, mạch nhỏ khó bắt, khả năng tử vong cao, nhưng có thể phục hồi mà không để lại di chứng.

Não và hệ thống thần kinh: thời kỳ phát triển nhanh của não tương ứng với thời kỳ đe dọa cao thiếu dinh dưỡng. Các chỉ số về phát triển trí tuệ của trẻ em thiếu dinh dưỡng nặng nhất là hai năm đầu thường kém rõ rệt so với nhóm bình thường.

Hệ thống miễn dịch: ở trẻ thiếu dinh dưỡng có hiện tượng teo tuyến ức, hạnh nhân, lách và các tổ chức lympho bào khác. Sự suy giảm miễn dịch trung tâm tế bào chủ yếu do thiếu protein, có thể do thiếu cả kẽm và các chất dinh dưỡng khác. Suy giảm miễn dịch là một trong những yếu tố làm tăng tỉ lệ nhiễm khuẩn ở trẻ suy dinh dưỡng .

Rối loạn chuyển hoá:

Chuyển hoá glucid:  trẻ em thiếu dinh dưỡng có thể xuất hiện tình trạng hạ đường huyết, do đó cần chú ý khi theo dõi điều trị.

Chuyển hoá lipid: ở trẻ thiếu dinh dưỡng hấp thu lipid thường kém gây ảnh hưởng đến hấp thu các vitamin tan trong lipid. Người ta nhận thấy trẻ thiếu dinh dưỡng hấp thu lipid thực vật tốt hơn lipid động vật. Do vậy, ở trẻ suy dinh dưỡng  nên dùng dầu thực vật để bổ sung năng lượng cho khẩu phần.

Chuyển hoá protein: tiêu hoá protein kém hơn do tiết trypsin của tuyến tuỵ giảm, nhưng không ảnh hưởng nhiều đến khả năng sử dụng và tích chứa protein khi áp dụng chế độ phục hồi. Tổng hợp albumin ở gan bị ảnh hưởng nên hàm lượng albumin huyết thanh giảm, giảm nhiều ở trẻ kwashiorkor, thường < 30 g/ l (bình thường từ 37,9 - 40,0 g/ l).

Chuyển hoá nước và điện giải: tình trạng thiếu kali thường hay xảy ra do ỉa chảy. Điện giải đồ thấy có tình trạng giảm kali một cách đáng kể, canxi, magiê cũng giảm, natri bình thường

Nguyên tắc điều trị bằng dinh dưỡng

Suy dinh dưỡng nhẹ và vừa (độ 1 và độ 2):

Đối với trẻ suy dinh dưỡng nhẹ (độ 1): 

Chỉ cần điều trị tại nhà bằng cách hướng dẫn bà mẹ hoặc người nhà điều chỉnh lại chế độ ăn cho hợp lý và theo dõi sự tăng cân của trẻ dựa vào  “Biểu đồ tăng trưởng”. Nên cho trẻ ăn thêm các thực phẩm có đậm độ năng lượng cao như dầu, mỡ, các thức ăn giàu protein động vật như: thịt, cá, trứng, sữa... các loại rau xanh và quả tươi giàu vitamin A cũng như các vitamin khác, giàu các chất khoáng.

Trẻ còn bú mẹ nên tiếp tục cho bú, không nên cai sữa khi trẻ đang bị suy dinh dưỡng.

Với trẻ suy dinh dưỡng vừa (độ 2): 

Có thể điều trị ngoại trú tại các phòng khám bệnh viện tỉnh, khu vực hoặc các trung tâm phục hồi dinh dưỡng. Vì suy dinh dưỡng độ 2 có thể có bội nhiễm vi khuẩn và cũng tư vấn chế độ ăn như độ 1.

Suy dinh dưỡng nặng (độ 3):

Trẻ suy dinh dưỡng nặng cần đưa ngay tới Bệnh viện để điều trị. Trẻ thường gặp các biến chứng:  Hạ đường huyết, hạ thân nhiệt, rối loạn điện giải, tổn thương tim và tử vong rất nhanh cùng với các biến chứng nhiễm khuẩn khác. Người ta nhận thấy liệu pháp dinh dưỡng hợp lý, kịp thời có tác dụng tốt trong việc phòng ngừa những biến chứng này.

Nguyên tắc cho ăn:

Ăn nhiều bữa trong ngày, những ngày đầu cứ 2 tiếng cho ăn 1 lần.

Ăn từ loãng đến đặc, từ ít đến nhiều.

Ăn tăng dần calo (từ 75 - 100 - 150 - 200 kcal/ kg). Khi trẻ ổn định duy trì ở mức 120 kcal/ kg/ ngày.

Người ta thấy rằng ở mức 100 kcal/ kg trọng lượng cơ thể/ ngày thì cân nặng của trẻ không tăng hoặc tăng không có ý nghĩa. Nhưng với mức 200 kcal/ kg thì trẻ suy dinh dưỡng có mức độ tăng trọng tối đa, để bắt kịp đà tăng truởng "Catch - up growth”  tức là tăng được khoảng 70 g/ kg/ tuần, hay còn gọi là “sự lớn bù”

Khi nhu cầu protein đã thoả mãn thì  năng luợng là yếu tố quyết định sự tăng trọng của trẻ trong phục hồi dinh d­ưỡng.

Tăng dần protein (từ 1 - 2 - 3 - 4 - 5 g/ kg). Khi trẻ ổn định duy trì ở mức 3g/ kg. Đa số các tác giả cho rằng trong điều trị trẻ suy dinh d­ưỡng, protein cho với số l­ượng quá lớn là không cần thiết mà cần sử dụng những loại protein có giá trị sinh học cao (nh­ư protein của trứng, sữa, thịt, cá...). Protein tăng từ 1 - 2 - 3g rồi tăng dần tối đa là 4 - 5g / kg/ngày. Protein cho  4 - 5g / kg và mức năng l­ợng từ 150 - 200 kcal/ kg/ ngày đã thoả mãn cho “sự lớn bù”

Nếu bệnh nhân ăn bằng miệng không đủ nhu cầu thì cho ăn bằng bơm qua ống thông hoặc nhỏ giọt dạ dày.

Các thực phẩm sử dụng cho trẻ suy dinh dưỡng  nặng

Dùng sữa cho thêm dầu, đường hoặc các loại thức ăn khác có đậm độ năng lượng cao, đảm bảo 1 kcal/ 1 ml thức ăn.

Ở trẻ còn bú: Ngoài sữa mẹ cho trẻ ăn thêm những bữa sữa - dầu - đường.

Ở trẻ ăn bổ sung: Ngoài sữa mẹ và những bữa sữa - dầu - đường cho ăn thêm bột ngũ cốc nấu với thịt, cá, trứng (thay đổi) + rau + dầu.

Ngoài ra, nên cho trẻ uống thêm các loại nước quả tươi

Chế độ ăn bằng sữa bò (Trẻ từ 6 - 12 tháng tuổi, mẹ không sữa):

Ngày

Loại thức ăn

Số lần ăn

trong 24 h

ml/ kg

Kcal/ kg

1 - 2

Sữa pha loãng 1/2

12

150

75

3 - 4

Sữa pha loãng 2/3

8 - 10

150

100

5 - 14

Sữa năng lượng cao

6 - 8

150

150

 

>  14

Sữa năng lượng cao + bột ngũ cốc (nấu với thịt, cá trứng + rau + dầu)

 

6 - 8

150 - 200

150 - 200

Với trẻ trên 12 tháng tuổi cần phối hợp các bữa sữa năng lượng cao với các món ăn đặc (cháo, cơm) cho thêm dầu.

Công thức pha sữa năng lượng cao (high energy milk) từ sữa bò:

Thành phần

Sữa bò tươi

Sữa bò toàn phần

(sữa bột)

Sữa gầy

Sữa chua

Sữa

1000 ml

150 g

70 g

1000 g

Đường

50 g

50 g

50 g

50 g

Dầu

20 g

10 g

60 g

20 g

Nước vừa đủ

0

1000 ml

1000 ml

0

1000 ml sữa năng lượng cao có 1000 kcal.

1000 ml sữa pha loãng 2/ 3 có 700 kcal.

1000 ml sữa pha loãng 1/ 2 có 500 kcal.

Từ tuần thứ 3 ngoài sữa có thể cho ăn bột, cháo để thay thế dần những bữa ăn bằng sữa rồi chuyển dần sang chế độ bình thường.

Một số trẻ khi ăn sữa bò bị rối loạn tiêu hoá vì bất dung nạp đường lactose hoặc protein của sữa bò, mặt khác sữa bò khá đắt tiền, vì vậy những trẻ không ăn được sữa bò và những nơi kinh tế khó khăn có thể dùng sữa đậu nành nuôi trẻ thay sữa bò.

Công thức pha sữa năng lượng cao từ sữa đậu nành (150 g/ l):

1000 ml sữa bao gồm:

Sữa đậu nành 1000 ml.

Đường 70 g.

Dầu 40 g.

1000 ml sữa này cũng đảm bảo có 1000 kcal.

Cách xây dựng một thực đơn cụ thể:

 Khi kê thực đơn phải dựa vào các căn cứ sau:

Nguyên tắc chung của điều trị bằng dinh dưỡng.

Tuổi và cân nặng thực tế của trẻ.

Giai đoạn cụ thể của bệnh: giai đoạn đầu hay giai đoạn đang phục hồi.

Tình trạng chung của trẻ: tốt hay xấu.

Sữa mẹ có hay không.

Tính cân đối của khẩu phần.

Trong khẩu phần phải có đủ các nhóm thực phẩm cung cấp :

Chất bột.

Chất đạm.

Chất béo.

Các vitamin và chất khoáng.

Ví dụ:

Trẻ trai 24 tháng tuổi, nặng 6,5 kg, không phù; chẩn đoán: marasmus.

 Đã qua những ngày cấp, với tình trạng cơ thể cho phép để đạt được hiện tượng lớn bù  cần cho ăn ở mức:

Năng lượng: 160 kcal/ kg/24 giờ.

Protein: 5 g/ kg/ 24 giờ.       

Cả ngày:

Năng lượng 1040 kcal.      

Protein 32,5 g (PĐV/ PTS ≥50%)/24 giờ.   

Yêu cầu:

7giờ: Sữa năng lượng cao 150 ml:

Sữa bột toàn phần  22,5 g.

Đường 7,5 g.

Dầu 1,5 g.

9 giờ: Sữa năng lượng cao  150 ml.                                           

11giờ: Cháo thịt 200 ml:                            

Gạo 30 g.

Thịt nạc 20 g.

Dầu 8g.

Rau tươi 20 g.

Gia vị vừa đủ.

Nước vừa đủ 200 ml.

14 giờ: Nước quả 100 ml:

Cam  200 g.

Đường 10g.

Nước sôi vừa đủ 100 ml.

17 giờ: Cháo trứng 200 ml:

Gạo 30 g.

Trứng gà 1 quả.

Dầu 8 g.

Rau tươi 20 g.

Gia vị vừa đủ.

Nước vừa đủ 200 ml.

20 giờ: Sữa năng lượng cao  150 ml:

Giá trị dinh dưỡng:

Năng lượng: 1040 Kcal.

Protein: 33,2 g (Protein ĐV/ProteinTS = 79,3%)

Lipid: 45,6 g

Glucid: 116,6 g

Lưu ý:

1 thìa  sữa  có ngọn khoảng 8 g sữa  (thìa bột).

1 thìa gạo có ngọn khoảng 8 g gạo (thìa bột).

1 thìa đường có ngọn khoảng 8 g đường (thìa bột).

1 thìa bột dầu khoảng 2,5 g.

Rau tươi 5 g.

Bột 200 ml là gần miệng bát con bột.

Điều trị bổ sung

Bồi phụ nước điện giải:

Mất nước nhẹ và vừa cho uống dung dịch oresol 50 - 100 ml/ kg cân nặng trong 4 - 6 giờ, uống ít một, nếu đỡ duy trì ở mức 100 ml/ kg. Nếu không đỡ cho uống 1 liều như ban đầu, theo dõi sát để có thái độ xử lý tiếp.

Mất nước nặng: trẻ li bì, không uống được hoặc nôn nhiều, cần truyền tĩnh mạch liều lượng 70 ml / kg trong 3 giờ đầu dung dịch ringerlactat . Khi trẻ đỡ, uống được thì cho uống thay truyền tĩnh mạch.

Điều trị các bệnh nhiễm khuẩn kèm theo:

Phát hiện sớm , điều trị kịp thời các bệnh nhiễm trùng bằng kháng sinh hợp lý.

Điều trị bổ sung khoáng, vitamin:

Kali, sắt, acid folic, vitamin A, vitamin B1, B2... Đối  với trẻ suy dinh dưỡng nặng không cho sắt trong giai đoạn đầu, chỉ sử dụng sắt khi trẻ bắt đầu tăng cân.

Chăm sóc: 

Giữ gìn vệ sinh thân thể, chăm sóc da, mắt, tai, răng miệng.

Dự phòng

Hiện nay công tác phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em đã trở thành một hoạt động dinh dưỡng quan trọng ở nước ta, trong đó mục tiêu hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng được đưa vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền, các địa phương. Các biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng bao gồm:

Thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ:

Đây là vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong những năm gần đây. UNICEF đã coi nuôi con bằng sữa mẹ là một trong 4 biện pháp quan trọng nhất (theo dõi biểu đồ phát triển, phục hồi mất nước do tiêu chảy bằng ORS, nuôi con bằng sữa mẹ và tiêm chủng theo lịch) để bảo vệ sức khoẻ trẻ em. Vì sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, thích hợp đối với trẻ. Các chất dinh dưỡng có trong sữa mẹ đều được cơ thể trẻ hấp thu và đồng hoá dễ dàng. Sữa mẹ là dịch thể sinh học tự nhiên chứa nhiều yếu tố quan trọng bảo vệ cơ thể trẻ mà không một thức ăn nào có thể thay thế được. Nuôi con bằng sữa mẹ là điều kiện mẹ gần gũi con, là yếu tố quan trọng giúp cho sự phát triển tự nhiên, hài hoà của đứa trẻ; người mẹ có thể phát hiện được sớm những thay đổi sinh lý hay bệnh lý của trẻ. Cần cho con bú kéo dài 18 - 24 tháng. Cho bú không cứng nhắc theo gìơ mà theo nhu cầu của trẻ.

Chăm sóc dinh dưỡng và sức khoẻ cho bà mẹ mang thai và cho con bú:

Thực hiện tư vấn, giáo dục dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai.

Thực hiện cho bà mẹ uống viên sắt, acid folic phòng chống thiếu máu, uống vitamin A liều cao ngay sau khi đẻ.

Quản lý tốt thai nghén và chăm sóc bà mẹ sau khi đẻ.

Cho ăn bổ sung hợp lý:

Sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất đối với trẻ trong 6 tháng đầu (180 ngày). Nhưng từ tháng thứ 6 trở đi, lượng sữa mẹ không đủ dáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của trẻ đang lớn nhanh. Vì vậy cần phải cho trẻ ăn bổ sung (ăn sam). Tuy nhiên cần lưu ý những điểm sau: thức ăn bổ sung cần có đậm dộ năng lượng thích hợp.  Sữa là một thức ăn lỏng. Thức ăn cho trẻ phải chuyển dần từ lỏng sang bán lỏng rồi mới đặc dần. Đồng thời, thức ăn bổ sung phải có đủ và cân đối các chất dinh dưỡng.

Tiêm chủng:

Thực hiện tiêm  chủng đầy đủ và đúng lịch.

Điều trị sớm các bệnh nhiễm khuẩn.

Thực hiện nuôi dưỡng tốt khi trẻ bị bệnh:

Các bệnh nhiễm  khuẩn nhất là tiêu chảy và viêm đường hô hấp khá phổ biến và là nguyên nhân quan trọng dẫn đến suy dinh dưỡng. Vì vậy, cần kết hợp với các hoạt động lồng ghép chăm sóc trẻ ốm cả về y tế và nuôi dưỡng. Cần thay đổi những quan niệm không phù hợp như kiêng mỡ, kiêng rau xanh khi trẻ bị tiêu chảy.

Sinh đẻ có kế hoạch:

Mỗi bà mẹ chỉ nên có từ 1-2 con để có điều kiện nuôi con tốt.

Tổ chức giáo dục, tư vấn dinh dưỡng taị cộng đồng và tại các gia đình, theo dõi biểu đồ tăng trưởng:

Công tác giáo dục và tư vấn dinh dưỡng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thay đổi hành vi nuôi dưỡng của các bà mẹ. Công tác này đòi hỏi sự kiên trì và có phương pháp đúng. Suy dinh dưỡng trẻ em thường diễn ra từ từ, đến khi nhận biết thường là muộn. Do đó, vấn đề nhận biết sớm có giá trị lớn trong việc can thiệp kịp thời. Theo dõi biểu đồ tăng trưởng là một trong các biện pháp quan trọng để phòng chống suy dinh dưỡng. Cân trẻ định kỳ đều hàng tháng, nếu trẻ tăng cân là biểu hiện bình thường, nếu xuống cân là biểu hiện nguy hiểm. Theo dõi biểu đồ tăng trưởng là công việc tự giác của bà mẹ trong phòng chống suy dinh dưỡng. Biểu đồ tăng trưởng giúp mẹ đánh giá đúng tình trạng sức khoẻ của con.

Trẻ < 1 tuổi         1 tháng cân 1 lần.

Trẻ 2- 5 tuổi        2-3 tháng cân 1 lần.

Nếu 3 tháng liền trẻ không tăng cân là báo hiệu suy dinh dưỡng.

Tóm lại, sử dụng biểu đồ tăng trưởng, nuôi con bằng sữa mẹ và thức ăn bổ sung hợp lý, giáo dục kiến thức dinh dưỡng cho người mẹ là các biện pháp quan trọng trong phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.

Bài viết cùng chuyên mục

Cách dùng thuốc cho trẻ em

Không được dùng hoặc phải rất thận trọng khi dùng cho trẻ những loại thuốc gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cơ thể, vì trẻ em là những cơ thể đang phát triển.

Đặc điểm hệ thần kinh trẻ em

Não trẻ sơ sinh có trọng lượng tương đối lớn hơn so với người lớn (não trẻ sơ sinh nặng 370 - 390g, chiếm 12 - 13% trọng lượng cơ thể, trong khi não của người lớn nặng 1400g.

Chăm sóc trẻ bị bệnh thận nhiễm mỡ

Đái nhiều protein sẽ dẫn đến giảm protit máu, và như v ây áp lực keo trong máu sẽ giảm, dẫn đến hiên tượng nước trong lòng mạch thoát ra gian bào gây nên phù và đái ít.

Bù nước cho trẻ em tiêu chảy và tiếp tục cho ăn

Không bao giờ cho thuốc cầm tiêu chảy hay thuốc chống nôn cho trẻ. Việc này không giúp ích trong điều trị tiêu chảy và một số thuốc này lại nguy hiểm.

Chăm sóc trẻ bị bệnh viêm cầu thận cấp

Viêm cầu thận cấp thường xảy ra sau vài tuầ n hoặc vài tháng kể từ khi trẻ bị viêm họng, viêm amydal, chốc đầu, lở loét ngoài da. Do vậy khi thăm khám bệnh nhân phù thận.

Đặc điểm hệ tiết niệu trẻ em

Mỗi thận có 9 - 12 đài thận, được chia thành 3 nhóm: trên, giữa, dưới. Hình dáng của hệ thống đài bể thận theo các lứa tuổi rất khác nhau do có nhu động co bóp để đẩy nước tiểu xuống phía dưới.

Chăm sóc trẻ em thiếu máu do thiếu sắt

Thiếu máu là tình trạng giảm lượng hemoglobin (Hb) hay khối hổng cầu trong một đơn vị thể tích máu, hemoglobin hay khối hổng c ầu thấp hơn giới hạn bình thường của người cùng lứa tuổi.

Đặc điểm máu trẻ em

Sự tạo máu ở trẻ em tuy mạnh, song không ổn định. Nhiều nguyên nhân gây bệnh dễ ảnh hưởng đến sự tạo máu, do đó trẻ dễ bị thiếu máu, nhưng khả năng hồi phục của trẻ cũng rất nhanh.

Chăm sóc trẻ bị bệnh thấp tim

Không phải bất kỳ trẻ em nào nhiễm liên cầu trùng beta tan huyết nhóm A cũng bị bệnh thấp tim. Trong số 90-95% trẻ em bị viêm họng do liên cầu, chỉ có 0,2 -3% trẻ bị thấp tim.

Đặc điểm hệ tuần hoàn trẻ em

Tim của trẻ sơ sinh tương đối to hơn so với trẻ lớn và chiếm 0,8% trọng lượng cơ thể. Sau 1 tuổi, sự phát triển của tim tỷ lê thuận với sự phát triển về chiều cao, cân nặng của trẻ và chiếm 0,5% trọng lượng cơ thể.

Chăm sóc trẻ bị viêm phổi nặng

Viêm phổi là bệnh thường gặp ở trẻ em và là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ dưới một tuổi, trẻ sơ sinh và suy dinh dưỡng.

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trẻ em

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính không những có tỷ lê mắc bệnh cao mà còn bị mắc nhiều lần trong năm, trung bình 1 trẻ trong 1 năm có thể bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính từ 3 -5 lần.

Đặc điểm hệ hô hấp trẻ em

Các xoang hàm đến 2 tuổi mới phát triển, xoang sàng đã xuất hiên từ khi mới sinh nhưng tế bào chưa biệt hoá đầy đủ, vì vây trẻ nhỏ ít khi bị viêm xoang.

Chăm sóc trẻ bị bệnh tiêu chảy cấp

Virus là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh tiêu chảy cho trẻ em. Những loại virus gây tiêu chảy là Rotavirus, Adenovirus, Norwalk virus, trong đó Rotavirus là tác nhân chính gây bệnh.

Đặc điểm hệ tiêu hoá trẻ em

Ở trẻ sơ sinh, thường thấy những hạt màu trắng hoặc vàng nhạt, to gần bằng hạt đỗ xanh, mật độ cứng, nằm dọc hai bên đường giữa vòm miệng.

Chăm sóc trẻ bị bệnh còi xương

Còi xương là một bệnh toàn thân, xảy ra trên một cơ thể mà hê xương c òn đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh, liên quan đến rối loạn chuyển hoá calci và phosphor do thiếu viamin D.

Chăm sóc trẻ bị suy dinh dưỡng

Da khô, trên da có thể xuất hiên các mảng sắc tố ở bẹn, đùi: lúc đầu là những chấm đỏ rải rác, lan to dần rồi tụ lại thành những đám màu nâu sẫm, sau vài ngày bong ra.

Đặc điểm da cơ xương trẻ em

Trong những tháng đầu sau đẻ, trẻ có hiện tượng tăng trương lực cơ sinh lý, trong đó trương lực của các cơ co tăng hơn các cơ duỗi. Do vây, trẻ thường nằm trong tư thế chân co, tay co, bàn tay nắm chặt.

Chăm sóc sức khoẻ ban đầu

Chăm sóc sức khỏe ban đầu là một chiến lược hay một giải pháp nhấn mạnh tới sự phát triển phổ câp các dịch vụ y tế. Các dịch vụ này người dân chấp nhân được

Sự phát triển tâm thần và vận động của trẻ em

Trẻ sơ sinh chỉ có những cử động tự phát, không ý thức. Do vây các động tác này thường xuất hiện đột ngột, không có sự phối hợp và đôi khi xảy ra hàng loạt các động tác vu vơ.

Tham vấn cho bà mẹ về các vấn đề bú mẹ

Nếu trẻ không được bú mẹ, tham vấn nuôi con bằng sữa mẹ và phục hổi sự tiết sữa. Nếu bà mẹ muốn, nhân viên tham vấn sữa mẹ có thể giúp bà tháo gỡ khó khăn và bắt đầu cho bú mẹ trở lại.

Sự phát triển về thể chất của trẻ em

Để đánh giá sự phát triển thể chất của trẻ em, có thể dựa vào việc theo dõi sự phát triển về cân nặng, chiều cao, vòng đầu, vòng ngực, vòng cánh tay, vòng đùi và tỷ lệ giữa các phần của cơ thể​.

Các thời kỳ phát triển của trẻ em

Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Khác với người lớn, trẻ em là một cơ thể đang phát triển. Phát triển là sự lớn lên về khối lượng và sự trưởng thành về chất lượng (sự hoàn thiên về chức năng các cơ quan).

Chăm sóc trẻ bệnh khi khám lại

Vì tầm quan trọng của việc khám lại, bạn cần phải sắp xếp để việc khám lại được thuận tiện cho các bà mẹ. Nếu có thể được, không nên để các bà mẹ phải xếp hàng chờ khám.

Chăm sóc trẻ nhỏ bị bệnh khi khám lại

Khi trẻ nhỏ được phân loại nhiễm khuẩn tại chỗ đến khám lại sau 2 ngày, hãy theo những chỉ dẫn ở khung “Nhiễm khuẩn tại chỗ trong phần khám lại của phác đồ.

Suy tim ở trẻ em

Dù bất cứ thay đổi sinh lý hay bệnh lý nào, cơ thể cũng tìm cách thích nghi để duy trì cung lượng tim và cung cấp O2 cho các tổ chức ở giới hạn ổn định hẹp, thông qua hàng loạt cơ chế bù trừ.

Suy dinh dưỡng trẻ em

Trong đa số trường hợp, suy dinh dưỡng xảy ra do sự kết hợp của cả 2 cơ chế, vừa giảm năng lượng ăn vào vừa tăng năng lượng tiêu hao (Ví dụ trẻ bệnh nhưng mẹ lại cho ăn kiêng).

Chẩn đoán và xử trí co giật ở trẻ em

Ở trẻ em, vì nguyên nhân gây co giật rất phong phú nên hình thái lâm sàng cũng rất đa dạng, do đó người thầy thuốc phải nắm vững cơ chế bệnh sinh, cách phân loại.

Chẩn đoán và xử trí ngộ độc cấp ở trẻ em

Ngộ độc ở trẻ em dưới 5 tuổi thường do uống lầm thuốc về liều lượng và chủng loại do cha mẹ hay do trẻ tò mò. Ngộ độc ở trẻ em lớn thường do tự tử.

Hướng dẫn tiếp nhận và sơ cứu khi cấp cứu

Một bệnh nhân được coi là ở trong tình trạng cấp cứu khi người đó bị rối loạn nghiêm trọng một hay nhiều chức năng sống, đe doạ gây tử vong. Do đó nhiệm vụ của người thầy thuốc cấp cứu tại tuyến cơ sở theo thứ tự ưu tiên.

Chẩn đoán và xử trí hôn mê ở trẻ em

Hôn mê là một tình trạng trong đó người bệnh không có thể mở mắt, không thể thực hiện các động tác theo mệnh lệnh, cũng không nói thành lời được.

Bệnh học hen ở trẻ em

Một số virus ái hô hấp như RSV hoặc parainfluenza virus cũng có thể gây hen thông qua sự tăng sản xuất IgE đặc hiệu đối với virus đó hoặc kích thích thụ thể phản xạ trục.

Bệnh học luput ban đỏ rải rác ở trẻ em (Luput ban đỏ hệ thống)

Chưa biết chắc chắn, có nhiều giả thuyết cho là do nhiễm khuẩn tiềm tàng ( Nhiễm vi khuẩn , Virut ...). Có thuyết cho là do hoá chất, có thuyết cho là do rối loạn chuyển hoá, nội tiết.

Bệnh học viêm phổi do virus ở trẻ em

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là bệnh lý phổ biến nhất trong bệnh lý nhi khoa. Tuy viêm phổi chỉ chiếm 10-15 % các trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, nhưng lại gây một tỷ lệ tử vong đáng kể.

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ em

Hiện nay chưa có vaccine. Việc cách ly các trẻ bị viêm mũi họng cấp là không cần thiết. Trẻ nhỏ nên tránh cho tiếp xúc với những người đang bị viêm mũi họng cấp.

Bệnh học nhiễm trùng tiết niệu ở trẻ em

Đau một bên hoặc cả hai bên lan xuống dưới; sờ, vỗ vào vùng hố thắt lưng bệnh nhân đau; có khi bệnh nhân đau như cơn đau quặn thận. Có khi sờ thấy thận to.

Bệnh học sốt xuất huyết Dengue ở trẻ em

Có 4 type huyết thanh ký hiệu DEN. 1, DEN. 2, DEN. 3, DEN. 4 mà về tính kháng nguyên thì rất gần nhau. Sau một giai đoạn ủ bệnh 4 - 6 ngày, virus hiện diện trong máu.

Bệnh học lao trẻ em

Trong bối cảnh lao đường tiêu hoá, lao ruột, lao phúc mạc, gồm sốt, biếng ăn, đau bụng lâm râm tái đi, tái lại, bụng chướng, bụng báng, dịch khu trú hoặc tự do ổ bụng.

Bệnh học nhi khoa bệnh sởi

Hàng năm toàn thế giới có khoảng 50 triệu trẻ bị sởi, trong đó ước tính khoảng 722.000 trẻ nhở hơn 5 tuổi tử vong do các biến chứng từ sởi và 40% tử vong do suy dinh dưỡng.

Bệnh học ho gà

Viêm phổi là biến chứng thường gặp nhất, chiếm 20 phần trăm, thường xảy ra vào tuần thứ 2, thứ 3 của giai đoạn ho cơn. Tác nhân có thể do chính bản thân B. pertussis.

Bệnh học bạch hầu

Người là ổ chứa của vi khuẩn bạch hầu. Bệnh lây truyền chủ yếu qua tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang trùng bởi các chất tiết đường hô hấp.

Bệnh học HIV AIDS ở trẻ em

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của bệnh do HIV là các biểu hiện của nhiễm trùng cơ hội và các bệnh u. Biểu hiện lâm sàng rất thay đổi ở nhiều cơ quan, dễ nhầm với nhiều bệnh.

Bệnh học sốt rét ở trẻ em

Do sự kết dính của hồng cầu làm tắt nghẻn vi quản mạch máu, hồng cầu giảm khả năng chuyên chở oxy, lưu lượng máu đến tưới các mô bị suy giảm.

Bệnh học viêm cầu thận mạn ở trẻ (Nephrite Chronique)

Nồng độ Ure máu có giá trị tiên lượng: 2-3g/lit thường chết trong vài tuần hoặc tháng. 1-2g/lit cầm cự không ngoài một năm. 0,5-1g/lit sống được lâu hơn.

Tổng quan nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ em

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp phổ biến ở thành thị hơn là nông thôn, tỉ lệ mắc bệnh ở nước ta tăng lên vào tháng 4, 5 và tháng 9, 10. Nguyên nhân có thể do yếu tố ấm nóng, gió.

Đánh giá và xử trí hen phế quản theo IMCI ở trẻ em

Nếu trẻ có tím trung tâm hoặc không uống được: Cho trẻ nhập viện và điều trị với thở oxy, các thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh và những thuốc khác được trình bày ở phần sau.

Bệnh học dị tật bẩm sinh ống tiêu hóa ở trẻ

Không điều trị trực tiếp vào thoát vị mà điều trị lên hồi lưu thực quản dạ dày. Để trẻ ở tư thế nữa nằm nữa ngồi, ăn thức ăn đặc, có thể có kết quả/

Bệnh học hội chứng cầu thận cấp ở trẻ em

Viêm cầu thận cấp không chỉ là một bệnh thông thường mà là một hội chứng gọi là Hội chứng cầu thận cấp. Bệnh cảnh lâm sàng rất đa dạng, nguyên nhân phát sinh không chỉ do liên cầu mà còn do Tụ cầu, Phế cầu, Vi rút.

Bệnh học viêm ruột hoại tử ở trẻ em

Bình thường thức ăn chứa ít protein, nhưng đột nhiên được ăn nhiều thịt và nhất là thức ăn đó bị nhiễm Clostridium Perfringens do đó cơ thể thiếu hụt tương đối lượng men trypsin.

Bệnh học xuất huyết tiêu hóa ở trẻ em

Tổn thương loét niêm mạc ống tiêu hoá là nguyên nhân phổ biến gây xuất huyết tiêu hoá; hiếm hơn là vỡ tĩnh mạch trong tăng áp lực tĩnh mạch cửa và rất hiếm do dị tật bẩm sinh.

Bệnh học táo bón ở trẻ em

Táo bón là sự đào thải phân khô cứng ra ngoài, và đau khi thải phân. Đây là một hiện tượng thường thấy ở trẻ em, chiếm khoảng 3-5% trẻ đến khám tại bác sĩ nhi khoa và 35 % trẻ đến khám ở các Bác sĩ nhi khoa tiêu hoá.

Bệnh học nôn trớ ở trẻ em

Nôn trớ là sự bắn tung mạnh mẽ những chất chứa trong dạ dày ra ngoài do co bóp của cơ hoành, cơ bụng và cơ trơn của dạ dày. Ợ là một hiện tượng mà một lượng nhỏ thức ăn từ dạ dày được bắn ra ngoài do sự co bóp của thành dạ dày.

Bệnh học tiêu chảy kéo dài ở trẻ em

Tỉ lệ tử vong là 35%/tử vong tiêu chảy. Tỷ lệ tử vong của tiêu chảy cấp / tỷ lệ mắc phải là 0.7% trong khi đó là 14% đối với tiêu chảy kéo dài (theo công trình nghiên cứu ở Bắc Ấn độ).

Bệnh học đau bụng ở trẻ em

Có thể phát hiện dấu hiệu viêm hạch mạc treo, búi lồng, hay hình ảnh ruột thừa viêm hay dịch tự do hay khu trú trong ổ bụng hay hình ảnh giun ở đường mật, đường tụy..

Suy hô hấp cấp ở trẻ em

Suy hô hấp là tình trạng hệ hô hấp không đủ khả năng duy trì sự trao đổi khí theo nhu cầu cơ thể, gây giảm O2 và/hoặc tăng CO2 máu. Hậu quả của suy hô hấp là thiếu oxy cho nhu cầu biến dưỡng của các cơ quan đặc biệt  là não, tim và ứ đọng CO2 gây toan hô hấp.

Co giật sơ sinh

Khác với trẻ lớn, co giật ở trẻ sơ sinh thường có nguyên nhân rõ ràng, do đó tìm và điều trị nguyên nhân là rất quan trọng khi xử trí co giật ở trẻ sơ sinh.

Nhiễm trùng rốn sơ sinh

Theo tổ chức y tế thế giới, có tới 47% trẻ sơ sinh bị nhiễm trùng huyết có ngõ vào từ nhiễm trùng rốn và khoảng 21% các trường hợp trẻ sơ sinh đến khám vì lý do khác có kèm theo nhiễm trùng rốn.

Viêm ruột hoại tử sơ sinh

Viêm ruột hoại tử sơ sinh là bệnh lý đường tiêu hóa nặng, thường gặp ở trẻ non tháng. Nguyên nhân chưa rõ, nhiều yếu tố có liên quan đến sinh bệnh học.

Phì đại tuyến hung ở trẻ em

Tuyến hung phì đại hay gặp nhất ở các trường hợp trung thất có khối mà không phải do hạch. Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 1 tuổi, hiếm gặp ở trẻ trên 4 tuổi.

U tuỷ thượng thận ở trẻ em

U tuỷ thượng thận là u tiết ra Catecholamine quá thừa từ u vùng tuỷ thượng thận sinh ra. Nhưng cũng có thể phát sinh từ nhiều nơi khác thuộc hệ thống giao cảm của chuỗi hạch giao cảm.

U tủy thượng thận gây nam hóa

U vỏ thượng thận tại vùng lưới sẽ sản xuất quá thừa một lượng hocmon nam là Androgene, gây cơ thể bị nam hoá chuyển giới với trẻ gái. Bệnh tương đối hiếm gặp.

Đục thủy tinh thể bẩm sinh

Đục thủy tinh thể bẩm sinh là đám mây trong thấu kính của mắt có từ lúc sinh. Thông thường thấu kính của mắt là 1 cấu trúc trong suốt, nó tập trung ánh sáng nhận được từ mắt tới võng mạc.

Tăng sản thượng thận bẩm sinh (CAH)

Tăng sản thượng thận bẩm sinh là một bệnh l{ gia đình có yếu tố di truyền, do rối loạn tổng hợp hocmon vỏ thượng thận, vì thiếu hụt các enzym, chủ yếu trong CAH là 21 hydroxylase.

Lõm lồng ngực bẩm sinh

Lõm lồng ngực bẩm sinh là một dị tật thành ngực trong đó xương ức và các xương sườn dưới bị lõm về phía sau. Tỷ lệ trẻ trai / trẻ gái = 3/1. 90% các trường hợp có biểu hiện bệnh ở lứa tuổi 1 tuổi.

Viêm mủ màng tim ở trẻ em

Viêm mủ màng ngoài tim nhanh chóng dẫn đến ép tim và tử vong nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm

Loạn sản phổi ở trẻ em

Lọan sản phổi còn gọi là bệnh phổi mạn tính, biểu mô các phế quản nhỏ bị họai tử và sừng hóa, giảm chất họat diện (surfactant), mô kẻ tăng sinh dạng sợi, hậu quả gây xơ hóa phổi.

Viêm tiểu phế quản cấp tính

Viêm tiểu phế quản cấp tính hay gặp ở trẻ nhỏ, dưới 1 tuổi thường do virus hợp bào hô hấp gây ra (Respiratory Syncytial Virus - RSV). Trẻ đẻ non, có bệnh tim bẩm sinh, có thiểu sản phổi dễ có nguy cơ bị bệnh.

Viêm thanh quản cấp ở trẻ em

Viêm thanh quản cấp thường do virut Para - influenza, hay xảy ra ở trẻ từ 6 tháng - 3 tuổi, vào mùa đông. Cho ăn chất dễ tiêu (sữa, cháo, ăn nhiều bữa). Nếu bệnh nhân không ăn phải cho ăn bằng sonde. Luôn có người ở cạnh bệnh nhân. Khi có nôn phải nhanh chóng hút và làm thông đường thở.

Viêm mủ màng phổi ở trẻ em

Viêm mủ màng phổi (VMMP) là một tình trạng bệnh lý gây nên bởi quá trình viêm kèm theo tích mủ trong khoang màng phổi do các vi khuẩn sinh mủ.

Vàng da do bất đồng nhóm máu ABO ở trẻ em

Bất đồng nhóm máu ABO thường gặp ở trẻ có nhóm máu A hay B với bà mẹ có nhóm máu O. Đây là tình trạng tán huyết đồng miễn dịch gây nên khi có bất đồng nhóm máu ABO giữa bà mẹ và trẻ sơ sinh.

Hội chứng thận hư tiên phát ở trẻ em

Hội chứng thận hư tiên phát trẻ em là một tập hợp triệu chứng thể hiện bệnh lý cầu thận mà nguyên nhân phần lớn là vô căn 90% dù khái niệm thận hư đã được Müller Frie rich Von nói đến.

Viêm bàng quang chảy máu ở trẻ em

Nguyên nhân chủ yếu là do virut, biến chứng của việc dùng các thuốc ức chế miễn dịch, ghép tuỷ, hãn hữu do một số loại vi khuẩn như liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn.

Hội chứng thận hư tiên phát kháng steroid ở trẻ em

Điều trị khó khăn, kéo dài dễ phát sinh các biến chứng như cao huyết áp, giữ nước, giảm nặng áp lực keo, rối loạn nước điện giải, suy thận. Thận hư kháng Corticoid chiếm khoảng 12 - 14% số bệnh nhân thận hư tiên phát.

Tinh hoàn lạc chỗ ở trẻ em

Tinh hoàn lạc chỗ hay tinh hoàn ẩn, không xuống bìu là một dị tật rất thường gặp ở trẻ em. Tỷ lệ mắc từ 3 - 4% trẻ bình thường và 30% trẻ sơ sinh đẻ non.

Viêm cầu thận cấp tiên phát ở trẻ em

Viêm cầu thận cấp tiên phát là bệnh viêm cầu thận lan toả sau nhiễm khuẩn, phần lớn sau nhiễm liên cầu tán huyết kiểu b nhóm A. Bệnh diễn biến lành tính.

Xuất huyết não màng não sớm ở trẻ em

Xuất huyết não màng não sớm xảy ra ở trẻ dưới 15 ngày tuổi, Nguy cơ mắc bệnh càng cao nếu càng non tháng

Xuất huyết màng não muộn do thiếu Vitamin K ở trẻ em

Xuất huyết não màng não muộn xảy ra ở trẻ từ 15 ngày tuổi đến 6 tháng tuổi và nhiều nhất là ở trong khoảng từ 1 đến 2 tháng tuổi. Thường các triệu chứng xuất hiện đột ngột và nhanh nên.

Thoát vị màng não tủy ở trẻ em

Thoát vị màng não tuỷ là do khuyết cung sau rộng làm cho ống sống thông với phần mềm ngoài ống sống, qua đó màng cứng tuỷ dễ dàng phình ra và tạo thành túi thoát vị.

Sốt cao gây co giật ở trẻ em

Co giật do sốt xảy ra khoảng 3% trẻ em. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi sơ sinh và trẻ nhỏ, từ 3 tháng đến 5 tuổi. Bệnh liên quan đến sốt nhưng không có bằng chứng của nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương.

Co giật ở trẻ em

Co giật là tình trạng rối loạn tạm thời về ý thức, vận động, cảm giác, thần kinh tự động do sự phóng điện đột ngột quá mức nhất thời của một số neuron thần kinh.

Xuất huyết não màng não ở trẻ lớn

Xuất huyết não ở trẻ lớn đa số do dị dạng thành mạch bẩm sinh, vỡ phình mạch gặp nhiều hơn vỡ các dị dạng thông động tĩnh mạch. Bệnh xảy ra đột ngột: Đau đầu dữ dội, rối loạn ý thức, hôn mê, liệt nửa người.

Xuất huyết não màng não ở trẻ nhỏ

Xuất huyết não - màng não hay gặp ở trẻ 1 - 2 tháng tuổi, đa số do thiếu Vitamin K, viêm gan. Siêu âm não qua thóp, chụp cắt lớp điện toán cho biết các vị trí chảy máu não, chảy máu dưới màng cứng, chảy máu dưới màng nhện, ổ máu tụ trong não

Viêm não nhật bản ở trẻ em

Viêm não Nhật Bản là bệnh nhiễm trùng cấp tính hệ thần kinh trung ương do virus viêm não Nhật Bản gây ra, là một bệnh nặng, nguy cơ tử vong và di chứng cao.

Bệnh lỵ trực trùng ở trẻ em

Hội chứng lỵ: Đau bụng liên tục và dội lên từng cơn kèm theo bệnh nhi mót đi ngoài, mót rặn và ỉa phân có lẫn nhầy máu hoặc lờ lờ máu cá, 10 - 30 lần/ngày.

Viêm màng não mủ ở trẻ em

Viêm màng não mủ là tình trạng nhiễm khuẩn màng não do vi khuẩn gây nên. Ba loại vi khuẩn gây bệnh chính là: Hemophilus Influenza, não mô cầu và phế cầu.

Viêm màng não do lao ở trẻ em

Từ ngày thứ 5 xuất viện, các dấu hiệu và triệu chứng của màng não như đau đầu, buồn nôn, nôn vọt, ỉa lỏng (hoặc táo bón) thậm chí co giật. Khám có thể thấy các dấu hiệu màng não như gáy cứng, Kerning và thóp phồng.

Viêm tủy cắt ngang ở trẻ em

Viêm tuỷ cắt ngang là hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi thương tổn cấp tính một đoạn tuỷ sống, biểu hiện liệt vận động, mất cảm giác dưới nơi tổn thương, rối loạn cơ tròn.

Viêm đa rễ và dây thần kinh ngoại biên ở trẻ em

Liệt có tính chất đối xứng, liệt ngọn chi nhiều hơn gốc chi, có nhiều trường hợp liệt đồng đều gốc chi như ngọn chi. Liệt có thể lan lên 2 chi trên, liệt các dây thần kinh sọ não IX, X, XI.

Trạng thái động kinh ở trẻ em

Là trạng thái trong đó các cơn co giật liên tiếp trên 15 phút, giữa 2 cơn bệnh nhân trong tình trạng hôn mê, rối loạn thần kinh thực vật, biến đổi hô hấp, tim mạch.

Trầm cảm ở trẻ em

Sững sờ, hoang tưởng và ảo giác có thể gặp trong trầm cảm nặng. Nội dung hoang tưởng thường là có tội, không xứng đáng, bị truy hại hoặc không tồn tại.

Rối loạn lo âu ở trẻ em

Rối loạn lo âu là sự lo sợ quá mức trước một tình huống xảy ra, có tính chất mơ hồ, vô lý, lặp lại và kéo dài gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống.

Trạng thái kích động tâm thần ở trẻ em

Kích động tâm thần là một trạng thái hưng phấn tâm lý vận động quá mức hoặc là những cơn xung động do mất sự kiểm soát của ý thức xuất hiện đột ngột.

Rối loạn phân ly ở trẻ em

Rối loạn phân ly ở trẻ em! Đặc điểm cơ bản của rối loạn này là bệnh nhân có biểu hiện tăng cảm xúc, tăng tính ám thị và tự ám thị và có thể điều trị nhanh khỏi.

Gãy xương ở trẻ em

Xương trẻ em liền nhanh do cốt mạc liên tục, sự cấp máu phong phú, trẻ càng nhỏ liền xương càng sớm.

Viêm khớp mủ ở trẻ em

Viêm mủ khớp là hậu quả của viêm xương tuỷ xương mà vùng hành xương nằm trong bao khớp hoặc có thể ổ viêm xương phá vỡ tổ chức khớp đưa mủ vào trong khớp.

Cứng duỗi khớp gối sau tiêm kháng sinh cơ tứ đầu đùi

Cứng duỗi khớp gối là tình trạng bệnh lý với hình thái khớp gối hạn chế gấp với khớp gối ở vị trí trung gian do xơ hoá cơ tứ đâu đùi sau tiêm kháng sinh trong cơ ở trẻ em.

Nhiễm trùng tụ cầu ở trẻ em

Tụ cầu gây nhiễm trùng có hai loại, Staphylococcus aureus và coagulase negative staphylococci, nhiễm trùng do coagulase negative staphylococci ít gặp.

Bệnh sởi ở trẻ em

Sởi là bệnh được mô tả lần đầu tiên vào thế kỷ thứ X do y sĩ Persan Rhazes. Đến thế kỷ thứ XVIII, Home mới có những công trình thực nghiệm về sự truyền bệnh.

Điều trị viêm màng não mủ ở trẻ em

Cho Dexamethazone 0,6mg/kg x 1 lần/ngày x 4 ngày nếu trẻ đến sớm và chưa dùng kháng sinh. Liều đầu tiên dùng trước khi cho bệnh nhân dùng kháng sinh

Nhiễm trùng huyết não mô cầu ở trẻ em

Nhiễm trùng huyết não mô cầu là bệnh nhiễm trùng huyết do vi trùng Nesseria Meningitidis gây ra, có hoặc không kèm viêm màng não. Bệnh có thể biểu hiện dưới bệnh cảnh tối cấp gây sốc nặng và tỷ lệ tử vong rất cao, cần điều trị tích cực.

Xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát ở trẻ em (ITP)

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát (ITP) là các trường hợp xuất huyết giảm tiểu cầu tiên phát, không rõ nguyên nhân, loại trừ các trường hợp giảm tiểu cầu thứ phát.

Thiếu máu tan máu tự miễn ở trẻ em

Bệnh thường xảy ra phối hợp với một số bệnh nhiễm khuẩn như viêm gan, viêm phổi do vius, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, hoặc trên cơ sở bị một số bệnh như U lympho Hodgkin, Lupus ban đỏ, hội chứng suy giảm miễn dịch.

Thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em

Thiếu máu thiếu sắt có đặc điểm là thiếu máu nhược sắc, sắt và Ferritin huyết thanh giảm. Thiếu máu thiếu sắt rất phổ biến và là thiếu máu dinh dưỡng chủ yếu ở trẻ em.

Sử dụng thuốc trong nhi khoa

Trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển, cần nắm rõ đặc điêm sinh lý, giải phẩu và tình trạng bệnh lý của trẻ. Chức năng gan, thận của trẻ chưa hoàn thiện => Khả năng chuyển hóa, tích lũy, đào thải kém-> dễ ngộ độc thuốc.

Viêm tai giữa cấp ở trẻ em

Trong viêm tai giữa cấp ở trẻ em, viêm tai giữa tiết dịch kéo dài nếu không điều trị đúng sẽ gây các di chứng nặng nề trên tai giữa và làm suy giảm chức năng nghe.