Chăm sóc trẻ bệnh khi khám lại

2014-11-03 07:59 PM

Vì tầm quan trọng của việc khám lại, bạn cần phải sắp xếp để việc khám lại được thuận tiện cho các bà mẹ. Nếu có thể được, không nên để các bà mẹ phải xếp hàng chờ khám.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Một số trẻ bệnh cần được đưa đến cơ sở y tế để được khám lại. Các bà mẹ được hướng dẫn khi nào cần đem trẻ đến khám lại (chẳng hạn sau 2 ngày hoặc 14 ngày). Khi khám lại, cán bộ y tế xem trẻ có cải thiện hơn với thuốc hoặc cách điều trị khác đã được chỉ định. Một số trẻ có thể không đáp ứng với kháng sinh hoặc thuốc sốt rét thứ nhất và có thể cần được điều trị thử bằng thuốc thứ hai. Trẻ mắc tiêu chảy kéo dài cũng cần được khám lại để đảm bảo là đã hết tiêu chảy. Trẻ bị sốt hoặc nhiễm khuẩn mắt cần được khám lại nếu không cải thiện. Việc khám lại đặc biệt quan trọng cho những trẻ có vấn đề nuôi dưỡng chưa hợp lý, để chắc chắn trẻ được nuôi dưỡng đầy đủ và đang tăng cân.

Vì tầm quan trọng của việc khám lại, bạn cần phải sắp xếp để việc khám lại được thuận tiện cho các bà mẹ. Nếu có thể được, không nên để các bà mẹ phải xếp hàng chờ khám. Không phải đóng tiền khi khám lại cũng là một cách tạo thuận lợi và được các bà mẹ hoan nghênh. Một số cơ sở y tế dùng một hệ thống giúp dễ dàng tìm phiếu ghi của trẻ theo lịch hẹn khám lại.

Khi khám lại, bạn phải thực hiện các bước khác hơn ở lần khám đầu của trẻ. Việc điều trị lúc khám đôi khi cũng khác so với điều trị lúc khám lần đầu. sử dụng phần nào trong phác đổ điều trị trẻ bệnh?

Ở cột “Xác định điều trị” của phác đổ đánh giá và phân loại, vài phân loại có chỉ dẫn khuyên bà mẹ đến khám lại. Khung “Khi nào trở lại” của phác đổ “ Tham vấn” tóm tắt lịch khám lại.

Những chỉ dẫn đặc biệt để tiến hành khám lại được ghi trong phần “Chăm sóc khi khám lại” của phác đổ điều trị trẻ bệnh. Các khung trong phác đổ đánh giá và phân loại có tiêu đề phù hợp với từng phân loại. Mỗi khung đều có hướng dẫn cách đánh giá lại và điều trị trẻ bệnh. Những chỉ dẫn điều trị như thuốc kháng sinh thứ hai hoặc thuốc sốt rét được ghi trong phác đổ điều trị trẻ bệnh.

Cách xử trí trẻ đến khám lại

Bạn cần hỏi bà mẹ để xác định trẻ đến khám lại. Hỏi bà mẹ xem trẻ có thêm vấn đề gì mới không. Ví dụ, nếu trẻ đến khám lại vì viêm phổi nhưng bây giờ thêm tiêu chảy, nghĩa là trẻ có một vấn đề mới. Trẻ này cần được đánh giá toàn diện.Kiểm tra dấu hiệu nguy hiểm toàn thân và đánh giá tất cả các triệu chứng chính và tình trạng nuôi dưỡng của trẻ. Phân loại và điều trị trẻ mắc tiêu chảy (vấn đề mới) như bạn phải làm ở lần khám đầu. Đánh giá lại và điều trị viêm phổi dựa vào khung khám lại.

Nếu trẻ không có vấn đề gì mới, dùng hướng dẫn khám lại IMCI cho từng vấn đề đặc hiệu.

Đánh giá trẻ dựa vào những chỉ dẫn trong khung khám lại. Những chỉ dẫn này có thể giúp bạn đánh giá một triệu chứng chính như trong phác đổ đánh giá và phân loại và cũng giúp bạn đánh giá thêm những dấu hiệu khác.

Lưu ý: Không được sử dụng bảng để phân loại một triệu chứng chín h. Hãy bỏ qua cột “Phân loại” và “Xác định điều trị” trong phác đổ đánh giá và phân loại. Điều này sẽ tránh lập lại những phương pháp điều trị không cần thiết. Có hai trường hợp ngoại lệ: Nếu trẻ có bất cứ phân loại nào về tiêu chảy, hãy phân loại và điều trị mất nước như bạn phải làm ở lần khám đầu. ở trẻ sốt xuất huyết, phân loại và điều trị trẻ như bạn phải làm ở lần đánh giá đầu.

Sử dụng các thông tin về các dấu hiệu của trẻ để chọn cách điều trị thích hợp.

Thực hiện điều trị.

Lưu ý: Nếu trẻ đến khám lại có nhiều vấn đề hơn; bệnh nặng hơn hay trở lại nhiều lần với những vấn đề mãn tính không đáp ứng với điều trị bạn đã chỉ định. Ví dụ, một số trẻ mắc bệnh AIDS có thể tiêu chảy kéo dài hoặc nhiều đợt viêm phổi tái diễn. Trẻ bị AIDS có thể đáp ứng kém với điều trị viêm phổi và có thể bị nhiễm khuẩn cơ hội. Những trẻ này phải được chuyển viện nếu không khá lên.

Hãy nhớ

Nếu trẻ có bất cứ vấn đề gì mới, bạn phải đánh giá trẻ như khám lần đầu.

Chăm sóc trẻ viêm phổi khi khám lại

Khi trẻ đã được cho một kháng sinh để điều trị viêm phổi đến cơ sở y tế sau 2 ngày để được khám lại, hãy theo các chỉ dẫn sau:

Khung đầu tiên mô tả cách đánh giá trẻ, nghĩa là kiểm tra trẻ về những dấu hiệu nguy hiểm toàn thân và đánh giá lại trẻ về ho và khó thở. Hướng dẫn tiếp th eo là nhìn phác đổ đánh giá và phân loại, có nghĩa là bạn phải đánh giá về những nguy hiểm toàn thân và triệu chứng chính là ho như đã được mô tả trong phác đổ đánh giá và phân loại. Rổi liệt kê một số mục để kiểm tra.

Hỏi:

Trẻ có thở châm hơn không?

Trẻ có đỡ sốt hơn không?

Trẻ có ăn tốt hơn không?

Khi bạn đã đánh giá đúng trẻ, dùng thông tin về các dấu hiệu của trẻ để chọn cách điều trị đúng.

Nếu trẻ có rút lõm lổng ngực hoặc một dấu hiệu nguy hiểm toàn thân (không thể uống hoặc bú mẹ, nôn tất cả mọi thứ, co giât, li bì hay khó đánh thức) có nghĩa là trẻ bệnh nặng hơn. Trẻ này cần được chuyển ngay đi bệnh viện. Vì trẻ bị viêm phổi nặng hơn khi điều trị với kháng sinh thứ nhất, nên cho trẻ liều đầu của kháng sinh thứ hai (nếu sẩn có) hoặc tiêm bắp chloramphe nicol trước khi chuyển.

Nếu nhịp thở, sốt và ăn không thay đổi, điều trị viêm phổi bằng kháng sinh thứ hai (những dấu hiệu có thể không hoàn toàn giống như 2 ngày trước, nhưng trẻ không nặng hơn và không tiến hành tốt trẻ vẫn thở nhanh, sốt và ăn kém. Tuy nhiên trước khi bạn cho kháng sinh thứ hai, nên hỏi bà mẹ xem trẻ có uống kháng sinh trong 2 ngày trước không.

Có thể có vấn đề làm trẻ không uống được kháng sinh hoặc đã uống liều quá thấp hoặc không đủ. Nếu vây, trẻ cần được điều trị lại với kháng sinh t hứ nhất. Bạn hãy cho trẻ uống một liều tại cơ sở y tế và kiểm tra xem bà mẹ có biết cách cho uống tại nhà không. Giúp bà mẹ giải quyết bất cứ vấn đề gì, chẳng hạn cách động viện trẻ uống thuốc khi trẻ từ chối.

Nếu trẻ đã uống đủ kháng sinh thứ nhất, hãy ch uyển kháng sinh thứ hai để điều trị viêm phổi, nếu sẩn có ở cơ sở y tế của bạn. Cho thuốc đủ 5 ngày. Ví dụ:

Nếu trẻ đã uống cotrimoxazole, đổi sang amoxycillin.

Nếu trẻ đã uống amoxycillin, đổi sang cotrimoxazole.

Cho uống liều đầu kháng sinh tại cơ sở y t ế của bạn. Hướng dẫn bà mẹ cách cho uống và khi nào cho trẻ uống thuốc tại nhà. Hướng dẫn bà mẹ đưa trẻ đến khám lại lần nữa sau 2 ngày.

Nếu trẻ đã uống đủ kháng sinh và bạn không có sẩn một kháng sinh khác thích hợp thì chuyển trẻ đi bệnh viện.

Nếu trẻ thở châm hơn, đỡ sốt hơn (nghĩa là sốt nhẹ hơn hoặc hoàn toàn hết sốt) và ăn tốt hơn, có nghĩa là trẻ đang tiến triển tốt. Trẻ có thể ho, nhưng đa số trẻ đang tiến triển tốt sẽ không còn thở nhanh. Hướng dẫn bà mẹ cho trẻ uống kháng sinh đủ 5 ngày. Nhắc bà mẹ về tầm quan trọng phải hoàn tất đủ 5 ngày điều trị.

Chăm sóc trẻ tiêu chảy kéo dài khi khám lại

Tìm khung “Tiêu chảy kéo dài” trong phần khám lại của phác đổ điều trị trẻ bệnh. Khi trẻ tiêu chảy kéo dài đến khám lại sau 5 ngày, hãy theo những chỉ d ẫn dưới đây.

Hỏi xem trẻ đã ngừng tiêu chảy chưa và đi ngoài bao nhiêu lần một ngày.

Nếu trẻ chưa ngừng tiêu chảy (trẻ còn đi phân lỏng từ 3 lần trở lên mỗi ngày), đánh giá lại toàn diện, nghĩa là đánh giá đầy đủ như được mô tả trong phác đổ

đánh giá và phân loại. Xác định và xử trí bất cứ vấn đề nào cần chú ý ngay chẳng hạn như mất nước. Rồi chuyển trẻ đi bệnh viên.

Nếu trẻ đã ngừng tiêu chảy (trẻ đi phân lỏng dưới 3 lần một ngày), hướng dẫn bà mẹ theo các hướng dẫn về nuôi dưỡng tuỳ theo tuổi của trẻ. Nếu trẻ không được nuôi dưỡng bình thường theo cách đó, bạn cần hướng dẫn bà mẹ cách nuôi dưỡng trong phác đồ tham vấn.

Chăm sóc trẻ lỵ khi khám lại

Tìm khung “Lỵ” trong phần khám lại của phác đồ điều trị trẻ.

Khi một trẻ được phân loại Lỵ đến khám lại sau 2 ngày, hãy theo các chỉ dẫn sau.

Đánh giá lại trẻ về tiêu chảy như đã được mô tả trong khung “Trẻ có tiêu chảy không?” trong phác đồ đánh giá và phân loại. Hỏi bà mẹ thêm những câu hỏi để xem tình trạng của trẻ để quyết định xem trẻ như cũ, xấu hơn ho ặc khá hơn. Chọn điều trị thích hợp.

Nếu trẻ có mất nước khi khám lại, sử dụng bảng để phân loại độ mất nước của trẻ. Chọn phác đồ bù dịch thích hợp và điều trị mất nước.

Nếu số lần đi tiêu chảy, máu trong phân, sốt, đau bụng hoặc ăn uống như cũ hoặc kém hơn, ngừng kháng sinh thứ nhất và cho kháng sinh thứ hai được khuyến cao Shigella (kháng sinh này được nêu rõ trong phác đồ điều trị). bệnh không đỡ có thể do Shigella kháng thuốc.

Cho trẻ uống liều đầu kháng sinh mới tại cơ sở y tế

Hướng dẫn bà mẹ cách và khi nào cho uống kháng sinh và giúp bà mẹ cách để có thể cho trẻ uống đủ 5 ngày.

Dặn bà mẹ đưa trẻ đến khám lại lần nữa sau 2 ngày.

Nếu sau khi được điều trị với kháng sinh thứ hai trong 2 ngày mà trẻ vẫn chưa cải thiên, có thể trẻ bị lỵ amib. Trẻ này có thể được điều trị bằng metronidazole (nếu có sẩn hoặc gia đình có thể mua) hoặc chuyển đi để được điều trị. Amib chỉ có thể được chẩn đoán chính xác khi tìm thấy dạng hoạt động của E.histolytica trong hồng cầu của mẫu phân tươi.

Tuy nhiên, nếu trẻ:

Nhỏ hơn 12 tháng tuổi hoặc

Có mất nước ở lần khám đầu hoặc

Đã mắc sởi trong vòng 3 tháng gần đây.

thì trẻ này có nguy cơ cao. Hãy chuyển trẻ đi bệnh viên.

Nếu trẻ giảm số lần đi tiêu chảy, máu trong phân ít đi, đỡ sốt, đỡ đau bụng và ăn tốt hơn, có nghĩa là trẻ có cải thiên với kháng sinh. Nếu chỉ có vài dấu hiệu giảm thì sử dụng sự phán đoán của bạn để quyết định trẻ có cải thiên hay không. Dặn bà mẹ điều trị kháng sinh cho đủ 5 ngày. Nhắc bà mẹ tầm quan trọng của viêc dùng đủ liều kháng sinh.

Chăm sóc trẻ sốt rét hoặc sốt - giống sốt rét khi khám lại

Bất cứ trẻ nào được phân loại có sốt rét hoặc sốt - giống sốt rét phải được khám lại nếu sau 2 ngày vẫn còn sốt. Nếu sốt kéo dài 2 ngày sau lần khám đầu hoặc sốt trở lại trong vòng 14 ngày, có thể:

Trẻ có nguyên nhân khác gây sốt, hoặc

Trẻ chưa được điều trị bằng thuốc sốt rét đúng như chỉ định tronglần khám đầu, hoặc

Trẻ bị sốt rét kháng với thuốc sốt rét được cho trong lần khám đầu.

Nếu trẻ cũng có phân loại đang mắc sởi trong lần khám đầu, sốt có thể do sởi. Sốt do sởi thường kéo dài nhiều ngày. Vì thế, sốt kéo dài có thể do sởi hơn là do sốt rét kháng thuốc.

Những chỉ dẫn để chăm sóc trẻ sốt rét hoặc sốt - giống sốt rét khi khám lại thì giống nhau. Tìm khung sốt rét trong phần khám lại của phác đổ điều trị trẻ.

Đánh giá lại trẻ toàn diên như trong phác đổ đánh giá và phân loại. Khi bạn đánh giá lại trẻ, tìm nguyên nhân sốt, có thể do viêm phổi, viêm màng não, sởi, nhiễm khuẩn tai hoặc lụ. Bạn cũng nên xem trẻ có bất cứ vấn đề gì khác có thể gây sốt, chẳng hạn như lao, nhiễm khuẩn đường tiết niêu, viêm xương tuỷ hoặc áp xe. Không sử dụng bảng của phác đổ đánh giá và phân loại để phân loại sốt của trẻ. Thay vào đó, chọn điều trị thích hợp được hướng dẫn trong ô khám lại. Nếu bạn nghi ngờ một nguyên nhân gây sốt khác ngoài sốt rét, đánh giá vấn đề đó kỹ hơn nếu cần và tham khảo hướng dẫn về điều trị vấn đề đó.

Nếu trẻ có bất cứ dấu hiệu nguy hiểm toàn thân nào hoặc cổ cứng hoặc thóp phổng, điều trị trẻ theo phác đổ đánh giá và phân loại về bệnh rất nặng có sốt / sốt rét nặng. Việc điều trị này bao gổm thuốc sốt rét thích hợp cho sốt rét nặng, một liều chloramphenicol tiêm bắp và một liều paracetamol. Cũng nên điều trị trẻ đẻ phòng hạ đường huyết và chuyển gấp đi bệnh viện.

Nếu có kết quả xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét:

Nếu bạn tìm thất ký sinh trùng sốt rét trên lam máu, chuyển trẻ đi bệnh viện. Trừ trường hợp trẻ được phân loại sốt - giống sốt rét ở lần khám đầu tại khu vực phía Bắc và đã được điều trị bằng cloroquine. Trong trường hợp này nếu bạn thấy lam máu có P.falciparum, đổi điều trị bằng artesunate hoặc artemisinin uống trong 5 ngày. Nếu tìm thấy P.vivax, mà bạn lại không tìm được nguyên nhân gây sốt khác, chuyển trẻ đi bệnh viện, vì trẻ có thể có nguyên nhân gây sốt khác ngoài sốt rét mà cơ sở y tế của bạn không thể phát hiện.

Trước khi chuyển, kiểm tra xem trẻ đã được điều trị bằng thuốc sốt rét uống như đã chỉ định ở lần khám đầu chưa. Nếu cần, cho trẻ uống một liều trước khi chuyển.

Nếu không tìm thấy ký sinh trùng sốt rét, tìm nguyên nhân khác gây sốt và điều trị nguyên nhân đó.

Phải chắc chắn trẻ đã được điều trị đầy đủ bằng thuốc sốt rét uống như đã chỉ định ở lần khám đầu.

Nếu chưa có kết quả xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét:

Kiểm tra xem trẻ có bất cứ nguyên nhân gây sốt nào khác ngoài sốt rét. Điều trị nguyên nhân gây sốt. Ví dụ, điều trị nhiễm khuẩn tai hoặc chuyển trẻ vì các vấn đề khác chẳng hạn như nhiễm khuẩn đường tiểu hoặc áp xe. Phải chắc chắn trẻ đã được điều trị đầy đủ với thuốc sốt rét uống như đã chỉ định ở lần khám đầu.

Nếu chỉ có sốt rét là nguyên nhân gây sốt, chuyển trẻ đi bệnh viện. Trừ trường hợp trẻ được phân loại sốt - giống sốt rét ở lần đầu khám tại khu vực phía Bắc, và đã được điều trị bằng chloroquine. Trong trường hợp này nếu chỉ có sốt rét là nguyên nhân duy nhất gây sốt, đổi điều trị bằng artesunate hoặc artemisnin uống trong 5 ngày. Trước khi chuyển, kiểm tra xem trẻ đã được uống thuốc như chỉ định ở lần khám đầu chưa. Nếu cần, cho trẻ một liều trước khi chuyển.

Đối với những trẻ không phải chuyển, dặn bà mẹ mang trẻ đến khám lại sau 2 ngày nếu vẫn sốt.

Nếu vẫn còn sốt mỗi ngày kéo dài trên 7 ngày, chuyển trẻ đi bệnh viện, vì trẻ có thể bị thương hàn hoặc một bệnh nặng khác cần phải xét nghiệm để chấn đoán và điều trị đặc hiệu.

Chăm sóc trẻ sốt - không giống sốt rét khi khám lại

Tìm khung “Sốt - không giống sốt rét” trong phần khám l ại của phác đổ điều trị trẻ. Khi một trẻ có sốt được phân loại như sốt - không giống sốt rét đến khám lại sau 2 ngày vì vẫn còn sốt, hãy theo những chỉ dẫn dưới đây:

Khi trẻ có nguy cơ sốt rét, và sốt kéo dài sau 2 ngày, có thể có vài nguyên nhân gây sốt chưa được phát hiên ở lần khám đầu. Đánh giá lại trẻ một cách toàn diên như trong phác đổ đánh giá và phân loại. Tìm nguyên nhân gây sốt. Bạn cũng hãy xem trẻ có vấn đề khác gây sốt, chẳng hạn như lao, nhiễm trùng đường tiểu, viêm xương tuỷ hoặc áp xe. Rổi chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp trong các ô khám lại.

Nếu trẻ có bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm toàn thân nào hoặc cổ cứng, hoặc thóp phổng, điều trị như bệnh rất nặng có sốt hoặc sốt rét nặng.

Nếu trẻ có bất kỳ nguyên nhân gây sốt không phải sốt rét, đ iều trị nguyên nhân gây sốt.

Nếu kết quả xét nghiêm máu dương tính, hoặc không có xét nghiêm và không tìm được nguyên nhân gây sốt khác: điều trị trẻ bằng thuốc sốt rét thích hợp theo khuyến cáo của Chương trình phòng chống sốt rét quốc gia. Dặn bà mẹ mang trẻ đến khám lại sau 2 ngày nếu vẫn còn sốt.

Nếu vẫn sốt hàng ngày và kéo dài trên 7 ngày, chuyển trẻ đi bệnh viện. Cần làm thêm các xét nghiệm chẩn đoán để xác định nguyên nhân gây sốt kéo dài của trẻ.

Chăm sóc trẻ sởi có biến chứng mắt và/hoặc miệ ng khi khám lại

Tìm khung “Sởi có biến chứng mắt và/hoặc miệng” trong phần khám lại của phác đổ điều trị trẻ. Khi trẻ đã được phân loại sởi biến chứng mắt và/hoặc miệng được đưa đến khám lại sau 2 ngày, theo các chỉ dẫn dưới đây:

Đánh giá trẻ, kiểm tra mắt và miệng. Chọn điều trị dựa trên những dấu hiệu của trẻ.

Điều trị nhiễm trùng mắt:

Nếu mắt trẻ đang chảy mủ, yêu cầu bà mẹ mô tả hoặc chỉ cho bạn cách bà mẹ điều trị nhiễm trùng mắt. Nếu bà có mang theo ống thuốc mỡ, bạn có thể nhìn xem bà mẹ có dùng không. Có thể có vấn đề khiến bà mẹ đã không điều trị đúng. Ví dụ, có thể bà mẹ không điều trị 3 lần một ngày, hoặc bà mẹ không lau sạch mắt trước khi tra thuốc, hoặc trẻ có thể vùng vẫy làm bà mẹ không thể tra thuốc vào mắt trẻ.

Nếu bà mẹ đã làm đúng như hướng dẫn trong 2 ngày và mắt vẫn còn mủ, chuyển trẻ đi bệnh viện.

Nếu bà mẹ đã làm không đúng như hướng dẫn, hỏi bà mẹ có những vấn đề gì khi bà mẹ cố gắng điều trị. Hướng dẫn bà mẹ bất kỳ điều gì bà mẹ có vẻ không biết. Thảo luân với bà mẹ cách khắc phục những khó khăn mà bà mẹ đang gặp. Cuối cùng, giải thích cho bà mẹ tầm quan trọng của việc điều trị. Khuyên bà mẹ đưa trẻ trở lại nếu mắt không cải thiện. Tuy nhiên, nếu bạn nghĩ bà mẹ vẫn chưa có thể điều trị mắt đúng, bạn hãy sắp xếp để bà mẹ điều trị cho trẻ hằng ngày tại cơ sở y tế hoặc chuyển trẻ đi bệnh viện.

Nếu mắt không còn mủ nhưng vẫn còn đỏ, tiếp tục điều trị. Giải thích cho bà mẹ rằng việc điều trị có hiệu quả. Động viên và tiếp tục điều trị đúng cho đến khi mắt trẻ hết đỏ.

Nếu mắt hết mủ và hết đỏ, ngưng điều trị. Khen bà mẹ điều trị mắt tốt. Nói với bà mẹ trẻ đã khỏ bệnh.

Điều trị loét miệng:

Nếu vết loét miệng nặng hơn, hoặc miệng có mùi hôi, chuyển trẻ đi bệnh viện. Loét miệng có thể làm trẻ khó ăn uống và có thể trở nên trầm trọng. Mùi rất hôi có thể là do nhiễm khuẩn nặng. Vấn đề loét miệng của sởi có thể là biến chứng của nhiễm nấm hoặc herpes.

Nếu vết loét miệng vẫn như cũ hoặc tốt hơn, khuyên bà mẹ tiếp tục điều trị bằng tím gentian 0,25% hoặc xanh methylen 1% hoặc glycerin borat 3% ch o đủ 5 ngày.

Bà mẹ nên tiếp tục nuôi trẻ với chế độ ăn thích hợp để duy trì cân nặng trong khi trẻ bị bệnh cấp tính và đề phòng suy dinh dưỡng. Hướng dẫn bà mẹ cách nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ như mô tả trong phác đổ tham vấn cho bà mẹ. Đặc biệt nhắc nhở bà mẹ cần quan tâm đến việc nuôi dưỡng trẻ bị sởi vì có nguy cơ dễ bị suy dinh dưỡng. Vì trẻ bị sởi có nguy cơ mắc bệnh cao trong nhiều tháng, nên điều quan trọng phải giải thích và hướng dẫn cho bà mẹ biết những dấu hiệu cần đưa trẻ đến khám lại ngay. Trẻ b ị sởi có nguy cơ biến chứng cao hoặc có vấn đề mới, do ức chế nhiễm dịch xảy ra trong và sau sởi.

Chăm sóc trẻ viêm tai khi khám lại

Tìm khung “Viêm tai” trong phần khám lại của phác đổ điều trị trẻ bệnh. Khi một trẻ học phân loại viêm tai đến khám lại sau 5 ngày, hãy theo các chỉ dẫn dưới đây. Những chỉ dẫn này được áp dụng cho viêm tai cấp hoặc mãn.

Đánh giá lại trẻ có vấn đề tai và đo nhiệt độ cho trẻ (hoặc sờ xem trẻ có sốt không). Sau đó chọn điều trị dựa trên các dấu hiệu của trẻ.

Nếu bạn sờ có khối sưng sau tai khi so sánh với tai bên kia, trẻ có thể bị viêm xương chũm, nếu trẻ có sốt cao (nhiệt độ ở nách 38,50C trở lên), trẻ có thể bị nhiễm khuẩn nặng. Trẻ bị viêm tai đến khám lại, có khối sưng đau sau tai hoặc sốt cao, như vây trẻ bị bệnh nặng hơn, cần được chuyển đi bệnh viện.

Viêm tai cấp: Nếu vẫn còn đau tai hoặc chảy nước tai sau khi được dùng kháng sinh 5 ngày, điều trị cùng loại kháng sinh thêm 5 ngày nữa. Dặn bà mẹ đưa trẻ khám lại sau 5 ngày tiếp theo để bạn có thể kiểm tra xem bệnh có tiến triển tốt không.

Nếu tai trẻ vẫn còn chảy nước, hướng dẫn bà mẹ tiếp tục làm khô tai bằng bấc sâu kèn. Giải thích cho bà mẹ tầm quan trọng của việc giữ tai khô mới có thể lành bệnh được.

Viêm tai mãn: Kiểm tra xem bà mẹ có làm khô tai đúng như hướng dẫn không. Để làm việc này, nói bà mẹ mô tả hoặc chỉ cho bạn thấy cách bà làm khô tai. Hỏi bà có thể làm khô tai bao nhiêu lần. Hỏi về những khó khăn bà đã gặp khi cố gắng làm khô tai và thảo luân với bà cách vượt qua những khó khăn này. Động viên bà tiếp tục làm khô tai. Giải thích việc làm khô tai là biện pháp điều trị hữu hiệu nhất của chảy nước tai. Không làm khô tai có thể làm cho trẻ bị giảm thính lực.

Nếu trẻ không còn đau tai hoặc chảy nước tai, khen ngợi bà mẹ đã điều trị cẩn thân. Hỏi xem bà đã cho trẻ uống kháng sinh đủ 5 ngày chưa. Nếu chưa, dặn bà mẹ cho trẻ uống đủ liều kháng sinh.

Chăm sóc trẻ có vấn đề nuôi dưỡng chưa hợp lý khi khám lại

Tìm khung “Vấn đề nuôi dưỡng chưa hợp lý” trong phần khám lại của phác đổ điều trị trẻ. Khi trẻ có vấn đề nuôi dưỡng trẻ cần được đưa đến khám lại sau 5 ngày, hãy theo các chỉ dẫn dưới đây:

Đánh giá lại việc nuôi dưỡng trẻ bằng cách hỏi bà mẹ những câu hỏi phần trên cùng của phác đổ tham vấn cho bà mẹ. Xem biểu đổ tăng trưởng của trẻ hoặc phiếu theo dõi mô tả bất kỳ vấn đề nuôi dưỡng đã được phát hiện trong lần khám đầu và những lời khuyên trước đây. Hỏi bà mẹ đã áp dụng những lời khuyên đó như thế nào. Ví dụ, trong lần khám đầu bạn đã hướng dẫn cách nuôi dưỡng tích cực hơn, nói bà mẹ mô tả một bữa ăn như thế nào và ai cho trẻ ăn.

Tham vấn cho bà mẹ về bất kỳ vấn đề nuôi dưỡng chưa hợp lý mới hoặc tổn tại từ 5 ngày trước. Nếu bà mẹ có vấn đề trở ngại khi nuôi dưỡng trẻ, bạn hãy thảo luân cách giải quyết vấn đề.

Ví dụ, nếu bà mẹ có khó khăn khi nuôi dưỡng tích cực hơn vì cần nhiều thời gian cho trẻ hơn, thảo luân cách sắp xếp lại thời gian bữa ăn cho trẻ. Nếu bạn có những tham vấn mới thay đổi đánh kể vấn đề nuôi dưỡng trẻ, hãy đề nghị bà mẹ mang trẻ đến khám lại sau 5 ngày nữa.

Nếu trẻ nhẹ cân so với tuổi, đề nghị bà mẹ đưa trẻ đến khám lại sau 30 ngày. Trong lần khám đó, cán bộ y tế sẽ xem xét sự tăng cân của trẻ để xác định những thay đổi nuôi dưỡng cần thiết.

Ví dụ:

Trong lần khám đầu, bà mẹ của một trẻ 2 tháng tuổi nói bà đã cho trẻ bú 2 hoặc 3 bình sữa và bú mẹ nhiều lần mỗi ngày. Cán bộ y tế khuyên bà hãy cho bú mẹ thường xuyên hơn, lâu hơn và giảm dần sữa hoặc thức ăn khác.

Trong lần khám lại, cán bộ y tế đặc câu hỏi với bà mẹ để biết bà đã cho những thức ăn khác bao nhiêu lần trong ngày và cho bú mẹ bao nhiêu lần trong ngày và mỗi lần bú bao nhiêu lâu. Bà mẹ nói hiên nay bà chỉ cho trẻ bú một bình sữa mỗi ngày và bú mẹ 6 lần trở lên trong 24 giờ. Cán bộ y tế khen ngợi bà làm tốt, rổi cán bộ y tế khuyên bà ngưng hoàn toàn sữa ngoài và cho bú mẹ ít nhất 8 lần trong 24 giờ. Vì có sự thay đổi nuôi dưỡng đáng kể, cán bộ y tế cũng dặn bà mẹ mang trẻ đến khám lần nữa. Trong lần khám tới, cán bộ y tế sẽ kiểm tra xem trẻ có được bú mẹ thường xuyên hơn không và động viên bà mẹ.

Chăm sóc trẻ thiếu máu khi khám lại

Tìm khung “Thiếu máu” trong phần khám lại của phác đổ điều trị trẻ bệnh. Khi trẻ có lòng bàn tay nhợt đến khám lại sau 14 ngày, hãy theo các chỉ dẫn dưới đây:

Cho trẻ thêm viên sắt và dặn bà mẹ cho trẻ uống như đã hướng dẫn cho lần khám đầu.

Tiếp tục cho trẻ viên sắt khi bà mẹ đưa trẻ trở lại mỗi 14 ngày cho đến 2 tháng.

Nếu sau 2 tháng bàn tay của trẻ vẫn còn nhợt, chuyển trẻ đi bệnh viên.

Chăm sóc trẻ nhẹ cân khi khám lại

Trẻ được phân loại nhẹ cân cần được khám lại sau 30 ngày (trẻ c ần được trở lại sớm hơn, nếu có vấn đề nuôi dưỡng). Một số cơ sở y tế có những buổi hẹn đặc biệt để tham vấn về nuôi dưỡng và khám lại những trẻ suy dinh dưỡng. Một buổi đặc biệt cho phép cán bộ y tế dành hết thời gian cần thiết để thảo luân về nuôi dưỡng với nhiều bà mẹ và có giới thiệu cách chế biến thức ăn tốt cho trẻ nhỏ.

Tìm khung “Nhẹ cân” trong phần khám lại của phác đổ điều trị trẻ bệnh. Theo những chỉ dẫn dưới đây để khám lại cho trẻ nhẹ cân.

Để đánh giá trẻ, hãy cân trẻ và xác định xem trẻ còn nhẹ cân so với tuổi không. Bạn cũng nên đánh giá lại cách nuôi dưỡng bằng cách hỏi bà mẹ những câu hỏi ở phần trên cùng của phác đổ tham vấn.

Nếu trẻ không nhẹ cân so với tuổi, khen ngợi bà mẹ đã thay đổi cách nuôi dưỡng và đã có hiệu quả.

Nếu trẻ vẫn còn nhẹ cân so với tuổi, tham vấn cho bà mẹ về bất kỳ vấn đề nuôi dưỡng được phát hiện. Tham vấn nuôi dưỡng bao gổm hướng dẫn bà mẹ cho trẻ những thức ăn thích hợp với lứa tuổi của trẻ và cho trẻ ăn đủ, thường xuyên. Tham vấn cũng bao gổm hướng dẫn bà mẹ cách nuô i trẻ tích cực.

Nhắc bà mẹ đưa trẻ trở lại sau 1 tháng. Điều quan trọng là tiếp tục theo dõi trẻ hàng tháng để khuyên bảo và động viên bà mẹ cho đến khi trẻ được nuôi dưỡng tốt và tăng cân đều đặn hoặc không còn nhẹ cân. Nếu trẻ tiếp tục sụt cân và chế độ ăn có vẻ không thay đổi, chuyển trẻ đi bệnh viên hoặc đến một nơi tư vấn về nuôi dưỡng.

Bài viết cùng chuyên mục

Cách dùng thuốc cho trẻ em

Không được dùng hoặc phải rất thận trọng khi dùng cho trẻ những loại thuốc gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cơ thể, vì trẻ em là những cơ thể đang phát triển.

Đặc điểm hệ thần kinh trẻ em

Não trẻ sơ sinh có trọng lượng tương đối lớn hơn so với người lớn (não trẻ sơ sinh nặng 370 - 390g, chiếm 12 - 13% trọng lượng cơ thể, trong khi não của người lớn nặng 1400g.

Chăm sóc trẻ bị bệnh thận nhiễm mỡ

Đái nhiều protein sẽ dẫn đến giảm protit máu, và như v ây áp lực keo trong máu sẽ giảm, dẫn đến hiên tượng nước trong lòng mạch thoát ra gian bào gây nên phù và đái ít.

Bù nước cho trẻ em tiêu chảy và tiếp tục cho ăn

Không bao giờ cho thuốc cầm tiêu chảy hay thuốc chống nôn cho trẻ. Việc này không giúp ích trong điều trị tiêu chảy và một số thuốc này lại nguy hiểm.

Chăm sóc trẻ bị bệnh viêm cầu thận cấp

Viêm cầu thận cấp thường xảy ra sau vài tuầ n hoặc vài tháng kể từ khi trẻ bị viêm họng, viêm amydal, chốc đầu, lở loét ngoài da. Do vậy khi thăm khám bệnh nhân phù thận.

Đặc điểm hệ tiết niệu trẻ em

Mỗi thận có 9 - 12 đài thận, được chia thành 3 nhóm: trên, giữa, dưới. Hình dáng của hệ thống đài bể thận theo các lứa tuổi rất khác nhau do có nhu động co bóp để đẩy nước tiểu xuống phía dưới.

Chăm sóc trẻ em thiếu máu do thiếu sắt

Thiếu máu là tình trạng giảm lượng hemoglobin (Hb) hay khối hổng cầu trong một đơn vị thể tích máu, hemoglobin hay khối hổng c ầu thấp hơn giới hạn bình thường của người cùng lứa tuổi.

Đặc điểm máu trẻ em

Sự tạo máu ở trẻ em tuy mạnh, song không ổn định. Nhiều nguyên nhân gây bệnh dễ ảnh hưởng đến sự tạo máu, do đó trẻ dễ bị thiếu máu, nhưng khả năng hồi phục của trẻ cũng rất nhanh.

Chăm sóc trẻ bị bệnh thấp tim

Không phải bất kỳ trẻ em nào nhiễm liên cầu trùng beta tan huyết nhóm A cũng bị bệnh thấp tim. Trong số 90-95% trẻ em bị viêm họng do liên cầu, chỉ có 0,2 -3% trẻ bị thấp tim.

Đặc điểm hệ tuần hoàn trẻ em

Tim của trẻ sơ sinh tương đối to hơn so với trẻ lớn và chiếm 0,8% trọng lượng cơ thể. Sau 1 tuổi, sự phát triển của tim tỷ lê thuận với sự phát triển về chiều cao, cân nặng của trẻ và chiếm 0,5% trọng lượng cơ thể.

Chăm sóc trẻ bị viêm phổi nặng

Viêm phổi là bệnh thường gặp ở trẻ em và là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ dưới một tuổi, trẻ sơ sinh và suy dinh dưỡng.

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trẻ em

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính không những có tỷ lê mắc bệnh cao mà còn bị mắc nhiều lần trong năm, trung bình 1 trẻ trong 1 năm có thể bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính từ 3 -5 lần.

Đặc điểm hệ hô hấp trẻ em

Các xoang hàm đến 2 tuổi mới phát triển, xoang sàng đã xuất hiên từ khi mới sinh nhưng tế bào chưa biệt hoá đầy đủ, vì vây trẻ nhỏ ít khi bị viêm xoang.

Chăm sóc trẻ bị bệnh tiêu chảy cấp

Virus là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh tiêu chảy cho trẻ em. Những loại virus gây tiêu chảy là Rotavirus, Adenovirus, Norwalk virus, trong đó Rotavirus là tác nhân chính gây bệnh.

Đặc điểm hệ tiêu hoá trẻ em

Ở trẻ sơ sinh, thường thấy những hạt màu trắng hoặc vàng nhạt, to gần bằng hạt đỗ xanh, mật độ cứng, nằm dọc hai bên đường giữa vòm miệng.

Chăm sóc trẻ bị bệnh còi xương

Còi xương là một bệnh toàn thân, xảy ra trên một cơ thể mà hê xương c òn đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh, liên quan đến rối loạn chuyển hoá calci và phosphor do thiếu viamin D.

Chăm sóc trẻ bị suy dinh dưỡng

Da khô, trên da có thể xuất hiên các mảng sắc tố ở bẹn, đùi: lúc đầu là những chấm đỏ rải rác, lan to dần rồi tụ lại thành những đám màu nâu sẫm, sau vài ngày bong ra.

Đặc điểm da cơ xương trẻ em

Trong những tháng đầu sau đẻ, trẻ có hiện tượng tăng trương lực cơ sinh lý, trong đó trương lực của các cơ co tăng hơn các cơ duỗi. Do vây, trẻ thường nằm trong tư thế chân co, tay co, bàn tay nắm chặt.

Chăm sóc sức khoẻ ban đầu

Chăm sóc sức khỏe ban đầu là một chiến lược hay một giải pháp nhấn mạnh tới sự phát triển phổ câp các dịch vụ y tế. Các dịch vụ này người dân chấp nhân được

Sự phát triển tâm thần và vận động của trẻ em

Trẻ sơ sinh chỉ có những cử động tự phát, không ý thức. Do vây các động tác này thường xuất hiện đột ngột, không có sự phối hợp và đôi khi xảy ra hàng loạt các động tác vu vơ.

Tham vấn cho bà mẹ về các vấn đề bú mẹ

Nếu trẻ không được bú mẹ, tham vấn nuôi con bằng sữa mẹ và phục hổi sự tiết sữa. Nếu bà mẹ muốn, nhân viên tham vấn sữa mẹ có thể giúp bà tháo gỡ khó khăn và bắt đầu cho bú mẹ trở lại.

Sự phát triển về thể chất của trẻ em

Để đánh giá sự phát triển thể chất của trẻ em, có thể dựa vào việc theo dõi sự phát triển về cân nặng, chiều cao, vòng đầu, vòng ngực, vòng cánh tay, vòng đùi và tỷ lệ giữa các phần của cơ thể​.

Các thời kỳ phát triển của trẻ em

Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Khác với người lớn, trẻ em là một cơ thể đang phát triển. Phát triển là sự lớn lên về khối lượng và sự trưởng thành về chất lượng (sự hoàn thiên về chức năng các cơ quan).

Chăm sóc trẻ nhỏ bị bệnh khi khám lại

Khi trẻ nhỏ được phân loại nhiễm khuẩn tại chỗ đến khám lại sau 2 ngày, hãy theo những chỉ dẫn ở khung “Nhiễm khuẩn tại chỗ trong phần khám lại của phác đồ.

Chế độ ăn cho trẻ suy dinh dưỡng

Suy dinh dư¬ỡng th¬ờng thấy sau các bệnh nhiễm khuẩn nh¬ư sởi, viêm phổi, tiêu chảy... mà các bà mẹ không biết cách cho ăn khi trẻ ốm nên dễ bị suy dinh dưỡng.

Suy tim ở trẻ em

Dù bất cứ thay đổi sinh lý hay bệnh lý nào, cơ thể cũng tìm cách thích nghi để duy trì cung lượng tim và cung cấp O2 cho các tổ chức ở giới hạn ổn định hẹp, thông qua hàng loạt cơ chế bù trừ.

Suy dinh dưỡng trẻ em

Trong đa số trường hợp, suy dinh dưỡng xảy ra do sự kết hợp của cả 2 cơ chế, vừa giảm năng lượng ăn vào vừa tăng năng lượng tiêu hao (Ví dụ trẻ bệnh nhưng mẹ lại cho ăn kiêng).

Chẩn đoán và xử trí co giật ở trẻ em

Ở trẻ em, vì nguyên nhân gây co giật rất phong phú nên hình thái lâm sàng cũng rất đa dạng, do đó người thầy thuốc phải nắm vững cơ chế bệnh sinh, cách phân loại.

Chẩn đoán và xử trí ngộ độc cấp ở trẻ em

Ngộ độc ở trẻ em dưới 5 tuổi thường do uống lầm thuốc về liều lượng và chủng loại do cha mẹ hay do trẻ tò mò. Ngộ độc ở trẻ em lớn thường do tự tử.

Hướng dẫn tiếp nhận và sơ cứu khi cấp cứu

Một bệnh nhân được coi là ở trong tình trạng cấp cứu khi người đó bị rối loạn nghiêm trọng một hay nhiều chức năng sống, đe doạ gây tử vong. Do đó nhiệm vụ của người thầy thuốc cấp cứu tại tuyến cơ sở theo thứ tự ưu tiên.

Chẩn đoán và xử trí hôn mê ở trẻ em

Hôn mê là một tình trạng trong đó người bệnh không có thể mở mắt, không thể thực hiện các động tác theo mệnh lệnh, cũng không nói thành lời được.

Bệnh học hen ở trẻ em

Một số virus ái hô hấp như RSV hoặc parainfluenza virus cũng có thể gây hen thông qua sự tăng sản xuất IgE đặc hiệu đối với virus đó hoặc kích thích thụ thể phản xạ trục.

Bệnh học luput ban đỏ rải rác ở trẻ em (Luput ban đỏ hệ thống)

Chưa biết chắc chắn, có nhiều giả thuyết cho là do nhiễm khuẩn tiềm tàng ( Nhiễm vi khuẩn , Virut ...). Có thuyết cho là do hoá chất, có thuyết cho là do rối loạn chuyển hoá, nội tiết.

Bệnh học viêm phổi do virus ở trẻ em

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là bệnh lý phổ biến nhất trong bệnh lý nhi khoa. Tuy viêm phổi chỉ chiếm 10-15 % các trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, nhưng lại gây một tỷ lệ tử vong đáng kể.

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ em

Hiện nay chưa có vaccine. Việc cách ly các trẻ bị viêm mũi họng cấp là không cần thiết. Trẻ nhỏ nên tránh cho tiếp xúc với những người đang bị viêm mũi họng cấp.

Bệnh học nhiễm trùng tiết niệu ở trẻ em

Đau một bên hoặc cả hai bên lan xuống dưới; sờ, vỗ vào vùng hố thắt lưng bệnh nhân đau; có khi bệnh nhân đau như cơn đau quặn thận. Có khi sờ thấy thận to.

Bệnh học sốt xuất huyết Dengue ở trẻ em

Có 4 type huyết thanh ký hiệu DEN. 1, DEN. 2, DEN. 3, DEN. 4 mà về tính kháng nguyên thì rất gần nhau. Sau một giai đoạn ủ bệnh 4 - 6 ngày, virus hiện diện trong máu.

Bệnh học lao trẻ em

Trong bối cảnh lao đường tiêu hoá, lao ruột, lao phúc mạc, gồm sốt, biếng ăn, đau bụng lâm râm tái đi, tái lại, bụng chướng, bụng báng, dịch khu trú hoặc tự do ổ bụng.

Bệnh học nhi khoa bệnh sởi

Hàng năm toàn thế giới có khoảng 50 triệu trẻ bị sởi, trong đó ước tính khoảng 722.000 trẻ nhở hơn 5 tuổi tử vong do các biến chứng từ sởi và 40% tử vong do suy dinh dưỡng.

Bệnh học ho gà

Viêm phổi là biến chứng thường gặp nhất, chiếm 20 phần trăm, thường xảy ra vào tuần thứ 2, thứ 3 của giai đoạn ho cơn. Tác nhân có thể do chính bản thân B. pertussis.

Bệnh học bạch hầu

Người là ổ chứa của vi khuẩn bạch hầu. Bệnh lây truyền chủ yếu qua tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang trùng bởi các chất tiết đường hô hấp.

Bệnh học HIV AIDS ở trẻ em

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của bệnh do HIV là các biểu hiện của nhiễm trùng cơ hội và các bệnh u. Biểu hiện lâm sàng rất thay đổi ở nhiều cơ quan, dễ nhầm với nhiều bệnh.

Bệnh học sốt rét ở trẻ em

Do sự kết dính của hồng cầu làm tắt nghẻn vi quản mạch máu, hồng cầu giảm khả năng chuyên chở oxy, lưu lượng máu đến tưới các mô bị suy giảm.

Bệnh học viêm cầu thận mạn ở trẻ (Nephrite Chronique)

Nồng độ Ure máu có giá trị tiên lượng: 2-3g/lit thường chết trong vài tuần hoặc tháng. 1-2g/lit cầm cự không ngoài một năm. 0,5-1g/lit sống được lâu hơn.

Tổng quan nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ em

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp phổ biến ở thành thị hơn là nông thôn, tỉ lệ mắc bệnh ở nước ta tăng lên vào tháng 4, 5 và tháng 9, 10. Nguyên nhân có thể do yếu tố ấm nóng, gió.

Đánh giá và xử trí hen phế quản theo IMCI ở trẻ em

Nếu trẻ có tím trung tâm hoặc không uống được: Cho trẻ nhập viện và điều trị với thở oxy, các thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh và những thuốc khác được trình bày ở phần sau.

Bệnh học dị tật bẩm sinh ống tiêu hóa ở trẻ

Không điều trị trực tiếp vào thoát vị mà điều trị lên hồi lưu thực quản dạ dày. Để trẻ ở tư thế nữa nằm nữa ngồi, ăn thức ăn đặc, có thể có kết quả/

Bệnh học hội chứng cầu thận cấp ở trẻ em

Viêm cầu thận cấp không chỉ là một bệnh thông thường mà là một hội chứng gọi là Hội chứng cầu thận cấp. Bệnh cảnh lâm sàng rất đa dạng, nguyên nhân phát sinh không chỉ do liên cầu mà còn do Tụ cầu, Phế cầu, Vi rút.

Bệnh học viêm ruột hoại tử ở trẻ em

Bình thường thức ăn chứa ít protein, nhưng đột nhiên được ăn nhiều thịt và nhất là thức ăn đó bị nhiễm Clostridium Perfringens do đó cơ thể thiếu hụt tương đối lượng men trypsin.

Bệnh học xuất huyết tiêu hóa ở trẻ em

Tổn thương loét niêm mạc ống tiêu hoá là nguyên nhân phổ biến gây xuất huyết tiêu hoá; hiếm hơn là vỡ tĩnh mạch trong tăng áp lực tĩnh mạch cửa và rất hiếm do dị tật bẩm sinh.

Bệnh học táo bón ở trẻ em

Táo bón là sự đào thải phân khô cứng ra ngoài, và đau khi thải phân. Đây là một hiện tượng thường thấy ở trẻ em, chiếm khoảng 3-5% trẻ đến khám tại bác sĩ nhi khoa và 35 % trẻ đến khám ở các Bác sĩ nhi khoa tiêu hoá.

Bệnh học nôn trớ ở trẻ em

Nôn trớ là sự bắn tung mạnh mẽ những chất chứa trong dạ dày ra ngoài do co bóp của cơ hoành, cơ bụng và cơ trơn của dạ dày. Ợ là một hiện tượng mà một lượng nhỏ thức ăn từ dạ dày được bắn ra ngoài do sự co bóp của thành dạ dày.

Bệnh học tiêu chảy kéo dài ở trẻ em

Tỉ lệ tử vong là 35%/tử vong tiêu chảy. Tỷ lệ tử vong của tiêu chảy cấp / tỷ lệ mắc phải là 0.7% trong khi đó là 14% đối với tiêu chảy kéo dài (theo công trình nghiên cứu ở Bắc Ấn độ).

Bệnh học đau bụng ở trẻ em

Có thể phát hiện dấu hiệu viêm hạch mạc treo, búi lồng, hay hình ảnh ruột thừa viêm hay dịch tự do hay khu trú trong ổ bụng hay hình ảnh giun ở đường mật, đường tụy..

Suy hô hấp cấp ở trẻ em

Suy hô hấp là tình trạng hệ hô hấp không đủ khả năng duy trì sự trao đổi khí theo nhu cầu cơ thể, gây giảm O2 và/hoặc tăng CO2 máu. Hậu quả của suy hô hấp là thiếu oxy cho nhu cầu biến dưỡng của các cơ quan đặc biệt  là não, tim và ứ đọng CO2 gây toan hô hấp.

Co giật sơ sinh

Khác với trẻ lớn, co giật ở trẻ sơ sinh thường có nguyên nhân rõ ràng, do đó tìm và điều trị nguyên nhân là rất quan trọng khi xử trí co giật ở trẻ sơ sinh.

Nhiễm trùng rốn sơ sinh

Theo tổ chức y tế thế giới, có tới 47% trẻ sơ sinh bị nhiễm trùng huyết có ngõ vào từ nhiễm trùng rốn và khoảng 21% các trường hợp trẻ sơ sinh đến khám vì lý do khác có kèm theo nhiễm trùng rốn.

Viêm ruột hoại tử sơ sinh

Viêm ruột hoại tử sơ sinh là bệnh lý đường tiêu hóa nặng, thường gặp ở trẻ non tháng. Nguyên nhân chưa rõ, nhiều yếu tố có liên quan đến sinh bệnh học.

Phì đại tuyến hung ở trẻ em

Tuyến hung phì đại hay gặp nhất ở các trường hợp trung thất có khối mà không phải do hạch. Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 1 tuổi, hiếm gặp ở trẻ trên 4 tuổi.

U tuỷ thượng thận ở trẻ em

U tuỷ thượng thận là u tiết ra Catecholamine quá thừa từ u vùng tuỷ thượng thận sinh ra. Nhưng cũng có thể phát sinh từ nhiều nơi khác thuộc hệ thống giao cảm của chuỗi hạch giao cảm.

U tủy thượng thận gây nam hóa

U vỏ thượng thận tại vùng lưới sẽ sản xuất quá thừa một lượng hocmon nam là Androgene, gây cơ thể bị nam hoá chuyển giới với trẻ gái. Bệnh tương đối hiếm gặp.

Đục thủy tinh thể bẩm sinh

Đục thủy tinh thể bẩm sinh là đám mây trong thấu kính của mắt có từ lúc sinh. Thông thường thấu kính của mắt là 1 cấu trúc trong suốt, nó tập trung ánh sáng nhận được từ mắt tới võng mạc.

Tăng sản thượng thận bẩm sinh (CAH)

Tăng sản thượng thận bẩm sinh là một bệnh l{ gia đình có yếu tố di truyền, do rối loạn tổng hợp hocmon vỏ thượng thận, vì thiếu hụt các enzym, chủ yếu trong CAH là 21 hydroxylase.

Lõm lồng ngực bẩm sinh

Lõm lồng ngực bẩm sinh là một dị tật thành ngực trong đó xương ức và các xương sườn dưới bị lõm về phía sau. Tỷ lệ trẻ trai / trẻ gái = 3/1. 90% các trường hợp có biểu hiện bệnh ở lứa tuổi 1 tuổi.

Viêm mủ màng tim ở trẻ em

Viêm mủ màng ngoài tim nhanh chóng dẫn đến ép tim và tử vong nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm

Loạn sản phổi ở trẻ em

Lọan sản phổi còn gọi là bệnh phổi mạn tính, biểu mô các phế quản nhỏ bị họai tử và sừng hóa, giảm chất họat diện (surfactant), mô kẻ tăng sinh dạng sợi, hậu quả gây xơ hóa phổi.

Viêm tiểu phế quản cấp tính

Viêm tiểu phế quản cấp tính hay gặp ở trẻ nhỏ, dưới 1 tuổi thường do virus hợp bào hô hấp gây ra (Respiratory Syncytial Virus - RSV). Trẻ đẻ non, có bệnh tim bẩm sinh, có thiểu sản phổi dễ có nguy cơ bị bệnh.

Viêm thanh quản cấp ở trẻ em

Viêm thanh quản cấp thường do virut Para - influenza, hay xảy ra ở trẻ từ 6 tháng - 3 tuổi, vào mùa đông. Cho ăn chất dễ tiêu (sữa, cháo, ăn nhiều bữa). Nếu bệnh nhân không ăn phải cho ăn bằng sonde. Luôn có người ở cạnh bệnh nhân. Khi có nôn phải nhanh chóng hút và làm thông đường thở.

Viêm mủ màng phổi ở trẻ em

Viêm mủ màng phổi (VMMP) là một tình trạng bệnh lý gây nên bởi quá trình viêm kèm theo tích mủ trong khoang màng phổi do các vi khuẩn sinh mủ.

Vàng da do bất đồng nhóm máu ABO ở trẻ em

Bất đồng nhóm máu ABO thường gặp ở trẻ có nhóm máu A hay B với bà mẹ có nhóm máu O. Đây là tình trạng tán huyết đồng miễn dịch gây nên khi có bất đồng nhóm máu ABO giữa bà mẹ và trẻ sơ sinh.

Hội chứng thận hư tiên phát ở trẻ em

Hội chứng thận hư tiên phát trẻ em là một tập hợp triệu chứng thể hiện bệnh lý cầu thận mà nguyên nhân phần lớn là vô căn 90% dù khái niệm thận hư đã được Müller Frie rich Von nói đến.

Viêm bàng quang chảy máu ở trẻ em

Nguyên nhân chủ yếu là do virut, biến chứng của việc dùng các thuốc ức chế miễn dịch, ghép tuỷ, hãn hữu do một số loại vi khuẩn như liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn.

Hội chứng thận hư tiên phát kháng steroid ở trẻ em

Điều trị khó khăn, kéo dài dễ phát sinh các biến chứng như cao huyết áp, giữ nước, giảm nặng áp lực keo, rối loạn nước điện giải, suy thận. Thận hư kháng Corticoid chiếm khoảng 12 - 14% số bệnh nhân thận hư tiên phát.

Tinh hoàn lạc chỗ ở trẻ em

Tinh hoàn lạc chỗ hay tinh hoàn ẩn, không xuống bìu là một dị tật rất thường gặp ở trẻ em. Tỷ lệ mắc từ 3 - 4% trẻ bình thường và 30% trẻ sơ sinh đẻ non.

Viêm cầu thận cấp tiên phát ở trẻ em

Viêm cầu thận cấp tiên phát là bệnh viêm cầu thận lan toả sau nhiễm khuẩn, phần lớn sau nhiễm liên cầu tán huyết kiểu b nhóm A. Bệnh diễn biến lành tính.

Xuất huyết não màng não sớm ở trẻ em

Xuất huyết não màng não sớm xảy ra ở trẻ dưới 15 ngày tuổi, Nguy cơ mắc bệnh càng cao nếu càng non tháng

Xuất huyết màng não muộn do thiếu Vitamin K ở trẻ em

Xuất huyết não màng não muộn xảy ra ở trẻ từ 15 ngày tuổi đến 6 tháng tuổi và nhiều nhất là ở trong khoảng từ 1 đến 2 tháng tuổi. Thường các triệu chứng xuất hiện đột ngột và nhanh nên.

Thoát vị màng não tủy ở trẻ em

Thoát vị màng não tuỷ là do khuyết cung sau rộng làm cho ống sống thông với phần mềm ngoài ống sống, qua đó màng cứng tuỷ dễ dàng phình ra và tạo thành túi thoát vị.

Sốt cao gây co giật ở trẻ em

Co giật do sốt xảy ra khoảng 3% trẻ em. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi sơ sinh và trẻ nhỏ, từ 3 tháng đến 5 tuổi. Bệnh liên quan đến sốt nhưng không có bằng chứng của nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương.

Co giật ở trẻ em

Co giật là tình trạng rối loạn tạm thời về ý thức, vận động, cảm giác, thần kinh tự động do sự phóng điện đột ngột quá mức nhất thời của một số neuron thần kinh.

Xuất huyết não màng não ở trẻ lớn

Xuất huyết não ở trẻ lớn đa số do dị dạng thành mạch bẩm sinh, vỡ phình mạch gặp nhiều hơn vỡ các dị dạng thông động tĩnh mạch. Bệnh xảy ra đột ngột: Đau đầu dữ dội, rối loạn ý thức, hôn mê, liệt nửa người.

Xuất huyết não màng não ở trẻ nhỏ

Xuất huyết não - màng não hay gặp ở trẻ 1 - 2 tháng tuổi, đa số do thiếu Vitamin K, viêm gan. Siêu âm não qua thóp, chụp cắt lớp điện toán cho biết các vị trí chảy máu não, chảy máu dưới màng cứng, chảy máu dưới màng nhện, ổ máu tụ trong não

Viêm não nhật bản ở trẻ em

Viêm não Nhật Bản là bệnh nhiễm trùng cấp tính hệ thần kinh trung ương do virus viêm não Nhật Bản gây ra, là một bệnh nặng, nguy cơ tử vong và di chứng cao.

Bệnh lỵ trực trùng ở trẻ em

Hội chứng lỵ: Đau bụng liên tục và dội lên từng cơn kèm theo bệnh nhi mót đi ngoài, mót rặn và ỉa phân có lẫn nhầy máu hoặc lờ lờ máu cá, 10 - 30 lần/ngày.

Viêm màng não mủ ở trẻ em

Viêm màng não mủ là tình trạng nhiễm khuẩn màng não do vi khuẩn gây nên. Ba loại vi khuẩn gây bệnh chính là: Hemophilus Influenza, não mô cầu và phế cầu.

Viêm màng não do lao ở trẻ em

Từ ngày thứ 5 xuất viện, các dấu hiệu và triệu chứng của màng não như đau đầu, buồn nôn, nôn vọt, ỉa lỏng (hoặc táo bón) thậm chí co giật. Khám có thể thấy các dấu hiệu màng não như gáy cứng, Kerning và thóp phồng.

Viêm tủy cắt ngang ở trẻ em

Viêm tuỷ cắt ngang là hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi thương tổn cấp tính một đoạn tuỷ sống, biểu hiện liệt vận động, mất cảm giác dưới nơi tổn thương, rối loạn cơ tròn.

Viêm đa rễ và dây thần kinh ngoại biên ở trẻ em

Liệt có tính chất đối xứng, liệt ngọn chi nhiều hơn gốc chi, có nhiều trường hợp liệt đồng đều gốc chi như ngọn chi. Liệt có thể lan lên 2 chi trên, liệt các dây thần kinh sọ não IX, X, XI.

Trạng thái động kinh ở trẻ em

Là trạng thái trong đó các cơn co giật liên tiếp trên 15 phút, giữa 2 cơn bệnh nhân trong tình trạng hôn mê, rối loạn thần kinh thực vật, biến đổi hô hấp, tim mạch.

Trầm cảm ở trẻ em

Sững sờ, hoang tưởng và ảo giác có thể gặp trong trầm cảm nặng. Nội dung hoang tưởng thường là có tội, không xứng đáng, bị truy hại hoặc không tồn tại.

Rối loạn lo âu ở trẻ em

Rối loạn lo âu là sự lo sợ quá mức trước một tình huống xảy ra, có tính chất mơ hồ, vô lý, lặp lại và kéo dài gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống.

Trạng thái kích động tâm thần ở trẻ em

Kích động tâm thần là một trạng thái hưng phấn tâm lý vận động quá mức hoặc là những cơn xung động do mất sự kiểm soát của ý thức xuất hiện đột ngột.

Rối loạn phân ly ở trẻ em

Rối loạn phân ly ở trẻ em! Đặc điểm cơ bản của rối loạn này là bệnh nhân có biểu hiện tăng cảm xúc, tăng tính ám thị và tự ám thị và có thể điều trị nhanh khỏi.

Gãy xương ở trẻ em

Xương trẻ em liền nhanh do cốt mạc liên tục, sự cấp máu phong phú, trẻ càng nhỏ liền xương càng sớm.

Viêm khớp mủ ở trẻ em

Viêm mủ khớp là hậu quả của viêm xương tuỷ xương mà vùng hành xương nằm trong bao khớp hoặc có thể ổ viêm xương phá vỡ tổ chức khớp đưa mủ vào trong khớp.

Cứng duỗi khớp gối sau tiêm kháng sinh cơ tứ đầu đùi

Cứng duỗi khớp gối là tình trạng bệnh lý với hình thái khớp gối hạn chế gấp với khớp gối ở vị trí trung gian do xơ hoá cơ tứ đâu đùi sau tiêm kháng sinh trong cơ ở trẻ em.

Nhiễm trùng tụ cầu ở trẻ em

Tụ cầu gây nhiễm trùng có hai loại, Staphylococcus aureus và coagulase negative staphylococci, nhiễm trùng do coagulase negative staphylococci ít gặp.

Bệnh sởi ở trẻ em

Sởi là bệnh được mô tả lần đầu tiên vào thế kỷ thứ X do y sĩ Persan Rhazes. Đến thế kỷ thứ XVIII, Home mới có những công trình thực nghiệm về sự truyền bệnh.

Điều trị viêm màng não mủ ở trẻ em

Cho Dexamethazone 0,6mg/kg x 1 lần/ngày x 4 ngày nếu trẻ đến sớm và chưa dùng kháng sinh. Liều đầu tiên dùng trước khi cho bệnh nhân dùng kháng sinh

Nhiễm trùng huyết não mô cầu ở trẻ em

Nhiễm trùng huyết não mô cầu là bệnh nhiễm trùng huyết do vi trùng Nesseria Meningitidis gây ra, có hoặc không kèm viêm màng não. Bệnh có thể biểu hiện dưới bệnh cảnh tối cấp gây sốc nặng và tỷ lệ tử vong rất cao, cần điều trị tích cực.

Xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát ở trẻ em (ITP)

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát (ITP) là các trường hợp xuất huyết giảm tiểu cầu tiên phát, không rõ nguyên nhân, loại trừ các trường hợp giảm tiểu cầu thứ phát.

Thiếu máu tan máu tự miễn ở trẻ em

Bệnh thường xảy ra phối hợp với một số bệnh nhiễm khuẩn như viêm gan, viêm phổi do vius, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, hoặc trên cơ sở bị một số bệnh như U lympho Hodgkin, Lupus ban đỏ, hội chứng suy giảm miễn dịch.

Thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em

Thiếu máu thiếu sắt có đặc điểm là thiếu máu nhược sắc, sắt và Ferritin huyết thanh giảm. Thiếu máu thiếu sắt rất phổ biến và là thiếu máu dinh dưỡng chủ yếu ở trẻ em.

Sử dụng thuốc trong nhi khoa

Trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển, cần nắm rõ đặc điêm sinh lý, giải phẩu và tình trạng bệnh lý của trẻ. Chức năng gan, thận của trẻ chưa hoàn thiện => Khả năng chuyển hóa, tích lũy, đào thải kém-> dễ ngộ độc thuốc.

Viêm tai giữa cấp ở trẻ em

Trong viêm tai giữa cấp ở trẻ em, viêm tai giữa tiết dịch kéo dài nếu không điều trị đúng sẽ gây các di chứng nặng nề trên tai giữa và làm suy giảm chức năng nghe.