Bệnh học ngoại khoa áp xe gan amip

2012-10-15 05:41 PM

Áp xe gan là loại bệnh đã được nghiên cứu từ hơn một thế kỷ nay. Triệu chứng thường điển hình với sốt, gan to, đau. Áp xe gan do amíp thường chỉ có một ổ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đại cương

Áp xe gan là loại bệnh đã được nghiên cứu từ hơn một thế kỷ nay. Triệu chứng thường điển hình với sốt, gan to, đau. Áp xe gan do amíp thường chỉ có một ổ. Mủ màu nâu, không mùi và thường là vô trùng, rất ít khi tìm được amíp trong mủ (5-15%). Đối với áp xe gan amíp, có thuốc điều trị đặc hiệu, nên về mặt diễn biến và tiên lượng tương đối tốt. Ngoài ra, hiện nay kỹ thuật chọc hút áp xe qua siêu âm được ứng dụng rộng rãi, nên phẫu thuật điều trị áp xe gan hầu như không còn áp dụng.

Nguyên nhân

Do các thể amíp gây ra, trong đó hay gặp nhất là thể Entamoeba hystolitica.

Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ.

Lứa tuổi thường mắc nhất từ 30-50, người già và trẻ em ít gặp hơn.

Cơ chế bệnh sinh

Kén amíp vào ruột gặp  điều kiện thuận lợi phát triển thành thể hoạt động và gây bệnh. Amíp gây loét ở ruột và thường là vùng manh tràng, sau đó đi tới  gan. Amíp đi tới gan bằng đường nào? Có nhiều giả thuyết: có tác giả cho là bằng đường  trực tiếp. Sau khi gây loét ở ruột, amíp lách qua các cơ, thành mạc, vào ổ bụng rồi trực tiếp tới gan. Có người cho amíp tới gan bằng đường  bạch huyết.  Nhưng cho đến nay thuyết cho rằng amíp đến gan bằng đường tĩnh mạch cửa vững hơn cả vì trong mổ tử thi người ta đã xác định được có amíp trong đoạn tĩnh mạch bị nghẽn.

Amíp gây loét sâu vào thành ruột làm thương tổn thành mạch, qua đó theo vào tĩnh mạch treo rồi đổ vào hệ thống tĩnh mạch cửa, lên gan. Người ta cho rằng khi đổ vào gan, máu vẫn chảy riêng thành hai luồng: một bên do tĩnh mạch mạc treo tràng trên xuất phát từ tĩnh mạch ruột non, manh và đại tràng

phải đổ vào gan phải; bên kia từ tĩnh mạch lách và đại  tràng trái đổ vào gan trái. Vì vậy áp xe gan do amíp thấy ở vùng gan phải nhiều hơn. Đến gan, amíp làm tắc các tĩnh mạch nhỏ gây nhồi huyết và độc tố của amíp gây hoại tử các tế bào gan.

Giải phẫu bệnh

Đại thể

Thời kỳ viêm gan lan rộng: gan to, ứ máu, màu tím sẫm.

Khi đã thành mủ, mủ khu trú trong mọi ổ rõ rệt và thường là một ổ độc nhất. Nhưng cũng có nhiều trường hợp có nhiều ổ áp xe nhỏ. ổ áp xe có thể rất lớn, chiếm cả thùy gan phải hoặc trái, trong chứa hàng lít mủ; có thể nhỏ hơn, bằng nắm tay, bằng quả chanh hoặc nhỏ hơn nữa. Áp xe thường gặp ở thùy phải nhiều hơn (80-90%). Thành áp xe mới đầu ngóc ngách không đều vì do nhiều nốt nhỏ hợp lại. Lúc này, thành mềm và mủn. Sau đó, một lớp vỏ rõ rệt được tạo nên và gồm hai lớp; trong là tổ chức nhu mô gan bị hủy hoại, ngoài là tổ chức sợi do xơ hóa các tổ chức liên kết của gan.

Chất chứa đựng trong áp xe mới đầu đặc quánh, màu nâu do máu và tổ chức  hủy hoại của gan trộn lẫn  với nhau, sau lỏng dần ra, màu giống màu cà phê  sữa, không mùi. Nếu một ổ áp xe hình thành đã lâu mà không được điều trị thì mủ có màu vàng  nhạt.

Vi thể

Lúc đầu amíp làm tắc những mạch nhỏ của tĩnh mạch cửa và sau đó thoát khỏi chỗ mạch bị thương tổn để gây nên hủy hoại tế bào gan kề bên tạo nên một tình trạng thoái hóa hạt, lúc đó xung quanh vỏ có một lớp bạch cầu bao  bọc. Chất  chứa đựng của áp xe lúc này không phải là mủ thật, mà là một hỗn hợp không thuần nhất, gồm những tế bào gan ít nhiều bị thoái hóa, hồng cầu, bạch cầu (với tỉ lệ đa nhân nhiều hơn ở trong máu bình thường); đại thực bào... Khi  áp xe tiến triển, trong mủ xuất  hiện những tinh thể acid béo và chậm hơn nữa sẽ trở thành “mủ  chết”. Lúc này chỉ còn thấy những bạch cầu thoái hóa, những hạt mỡ và tinh thể acid béo.

Giai đoạn đầu, trong tổ chức hoại tử đầy amíp. Nhưng khi áp xe tiến triển,  các chất này biến thành mủ chết và amíp chỉ còn có thể  thấy trong thành áp xe nhất là ở sâu, chỗ giáp giới với tổ chức  gan lành.

Triệu chứng cơ năng

Hai triệu chứng thường thấy và tương đối cố định là:

Sốt có thể rất cao: Thường là nhiệt độ tăng đột ngột 39-400C, có thể kèm theo rét run, sau đó vã mồ hôi. Nhưng có thể chỉ tăng dần dần và với mức độ vừa phải.

Đau là triệu chứng có nhiều giá  trị. Bệnh nhân có cảm  giác như bị ép ở vùng gan. Vị  trí đau thông thường nhất là ở vùng đáy ngực phải và có cảm giác lan rộng trong toàn bộ gan. Hướng lan thường lên ngực và vai phải, làm cho  bệnh nhân khó chịu. Đau có thể âm ỉ, liên tục, hoặc thành những cơn nhức buốt và thường tăng lên khi ho, cử động mạnh, nằm nghiêng bên phải, hoặc hít vào sâu; vì vậy trong mọi động tác bệnh nhân phải cố gượng nhẹ ngay cả  khi thở. Đau liên  tục, kể cả trong lúc nghỉ, nên bệnh nhân thường mất ngủ.

Triệu chứng toàn thân

Người gầy yếu, da sạm, lưỡi bẩn, môi khô...không thường xuyên và có ít giá trị trong chẩn đoán xác định.

Triệu chứng thực thể

Triệu chứng nổi bật nhất là gan to và đau.

Gan to

Khi áp xe thùy phải, bờ dưới của gan có thể vượt khỏi bờ sườn khoảng 2-3 khoát ngón tay, bờ đều, mặt nhẵn, mật độ chắc, gõ đục và ấn rất đau. Đôi khi nắn có cảm giác lùng nhùng nếu áp xe to và nông. Nếu áp xe thùy trái thì thấy khối u nằm chắn ngang trên rốn và liền với gan.

Trong những trường hợp gan to về phía  trên, gõ sẽ phát hiện vùng đục của  gan lên cao, vượt quá khoảng liên sườn 5, nghe mất rung thanh phía sau nên  ngực phải. Áp xe ở đỉnh hay gây phản ứng màng phổi, nên khi gõ vùng đục có thể cao hơn thương tổn thực thể. Khi áp xe đã được thành lập rõ rệt, đôi khi có thể thấy các khoảng liên sườn ở phía dưới giãn rộng, đáy ngực nhô cao hơn so với bên đối diện, đi đôi với phù thành ngực tại chỗ.

Khám lâm sàng vùng gan

Tìm điểm đau: Dùng ngón tay ấn ở các khoảng liên sườn VII, VIII, IX trên đường nách giữa, bệnh nhân sẽ đau nhói. Triệu chứng này xuất hiện rất  sớm, ngay trong giai đoạn viêm gan toàn thể.

Dấu hiệu rung gan: Đây là triệu chứng có giá trị hơn cả. Để bệnh nhân nằm ngửa, bàn tay trái xòe, các ngón tay dọc theo các khoảng liên sườn phía  trước vùng gan, dùng tay phải chặt lên tay trái, bệnh nhân sẽ ngừng thở đột ngột vì rất đau.

X quang không chuẩn bị

Cơ hoành bị đẩy lên cao, thường là ở bên phải.

Bờ dưới của bóng gan thường thấp hơn

Mờ đáy phổi phải do phản ứng mạnh của màng phổi, thể hiện bằng góc sườn hoành bị lấp đầy hay mờ.

Khi chiếu ta có thể thấy thêm một dấu hiệu là cơ hoành phải kém di động.

Siêu âm

Cho hình ảnh ổ áp xe, vị trí, kích thước và tính chất của áp xe.

Chụp cắt lớp vi tính

Chụp cắt lớp vi tính giúp xác định hình ảnh, vị trí ổ áp xe. Ngoài  ra CT scan còn xác định tình trạng của khoang màng phổi phải.

Các xét nghiệm khác

Phân: Cấy hoặc soi tươi tìm amíp và kén amíp rất ít khi thấy.

Máu: Bạch cầu thường tăng cao trung bình lên tới 10.000, có khi lên tới 20.000mm3 với 75-80% bạch cầu đa nhân trung tính.

Trong các xét nghiệm, có giá trị và trung thành nhất là tốc độ lắng máu. Thường tăng rất rõ, sau giờ thứ hai từ khoảng 75-125mm (phương pháp Westergreen) nó biểu thị quá trình hủy hoại của tế bào gan. Ngoài giá trị chẩn đoán, tốc độ lắng máu còn là một tiêu chuẩn để đánh giá và theo dõi kết quả điều trị. Khi viêm gan giảm thì tốc độ lắng máu xuống dần và trở lại bình thường khi khỏi bệnh.

Trong những năm gần đây, để xác định nguyên nhân người ta tìm phản ứng  miễn dịch đặc hiệu của cơ thể đối với amíp. Nguyên tắc dùng kháng nguyên là loại amíp gây bệnh đã được xác định và giữ lại trong môi trường nuôi cấy. Cho kết hợp với kháng thể lấy từ huyết thanh bệnh nhân và dùng một chất  phát quang để có thể thấy được phản ứng khi soi trên kính hiển vi. Vì vậy nó  còn được gọi là “phản ứng miễn dịch huỳnh quang”.

Hiện nay nhiều phản ứng miễn dịch như Elisa test, Latex test được thực hiện  và góp phần vào chẩn đoán dương tính áp xe gan amíp. Một số các xét nghiệm khác như Gros, Mac-Lacgan, điện di, transaminase thường không có thay đổi rõ rệt.

Tiến triển và biến chứng

Khi viêm gan amíp được phát hiện sớm và điều trị đúng, bệnh có thể khỏi. Emetin đã làm  thay đổi  toàn diện. Tuy nhiên vẫn còn có một số trường hợp mặc dầu được điều trị đúng và tích cực mà bệnh vẫn tiến triển. Trong những trường hợp không được điều trị, một số có thể tự khỏi, nhưng đó là việc hãn hữu, thường thì bệnh tiến tới giai đoạn áp xe khu trú. Nếu trong thời kỳ này  áp xe không được dẫn lưu thì bệnh nhân sẽ chết do suy nhược trong vòng từ 3-6 tháng, hoặc chết do các biến chứng.

Vỡ vào các ổ thanh mạc

Vỡ vào màng phổi.

Vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể.

Vỡ vào ổ phúc mạc khu trú do các tạng xung quanh gây dính trước khi áp xe vỡ, gặp nhiều hơn.

Vỡ vào các tạng trong ổ bụng

Ít gặp.

Vỡ vào dạ dày, ruột.

Vỡ vào túi mật hay đường dẫn mật  làm thông giữa đường mật và áp xe.

Vỡ ra thành bụng

Áp xe có thể vỡ qua phúc mạc ra sau vào ổ thận làm  nhầm với viêm tấy quanh thận, do nguyên nhân khác.

Những biến chứng khác

Ngoài các biến chứng nói trên, một số các biến chứng khác có thể gặp nhưng hiếm hơn:

Chảy máu trong ổ áp xe.

Bội nhiễm, làm áp xe nặng hơn.

Các thể lâm sàng

Theo vị trí

Áp xe thùy phải thường gặp nhất có triệu chứng điển hình như đã mô tả ở trên.

Áp xe ở đỉnh với triệu chứng ồn ào của lồng ngực: Khó thở.

X quang: Cơ hoành phải bị đẩy lên cao, có nước màng phổi.

Áp xe phía sau thùy phải gây đau khu trú ở vùng thắt lưng.

Áp xe mặt dưới có thể làm ta tưởng là u thận hoặc u đại tràng.

Áp xe thùy trái biểu hiện bởi  một khối u nằm trong vùng trên rốn nhưng liền với gan.

Theo triệu chứng

Thể áp xe amíp lạnh: Nhiệt độ không tăng, tự nhiên không đau, bạch cầu tăng ít, khoảng 10.000, nhưng có thay đổi của tình trạng  toàn thân rõ rệt, gầy nhanh do đó rất  dễ nhầm với ung thư gan.

Thể giả viêm phúc mạc: Bệnh bắt đầu đột ngột với co cứng thành bụng gây nên một bệnh cảnh giống như thủng dạ dày.

Thể hô hấp: Bệnh nhân tới với triệu chứng của viêm màng phổi hoặc viêm phổi. Có thể triệu chứng dẫn bệnh nhân tới bệnh viện là khạc ra mủ.

Theo tiến triển

Thể tối cấp rất hiếm gặp, thường xảy ra ở người già, kém sức đề kháng.

Tiến triển của thể này rất nặng. Thường dẫn tới tử vong khoảng từ 1-6 tuần. Bệnh nhân gầy nhanh, có thể có cổ trướng, phù chi dưới, đôi khi do một biến chứng như vỡ vào phúc mạc, chảy máu làm tử vong.

Thể mạn tính, khởi phát có thể âm thầm hoặc rầm rộ như các trường hợp viêm gan thông thường khác, nhưng sau đó qua đi và tiến triển một cách thầm lặng. Các triệu chứng khác về cận lâm sàng cũng thường không rõ rệt trừ chiếu hoặc chụp cho ta thấy gan to. Chọc dò sẽ cho phép xác định chẩn  đoán.

Chẩn đoán xác định

Đứng trước một bệnh nhân bị kiết lỵ, bao  giờ cũng phải tìm triệu chứng của  viêm gan, và trước một bệnh nhân có sốt, đau và gan to, bao giờ cũng phải nghĩ tới áp xe gan. Việc hỏi tiền sử  cũng góp  phần trong chẩn  đoán song  không quan trọng lắm.

Các xét nghiệm: Bạch cầu tăng, tốc độ lắng máu tăng, chụp không chuẩn bị hay có chuẩn bị bằng bơm hơi đại tràng hoặc uống chất cản quang sẽ cho thấy gan to, cơ hoành phải kém di động, góc sườn hoành mờ.

Ngoài  vấn đề xác định là một trường hợp áp xe, siêu âm còn cho phép ta biết được gan hiện còn đang ở trong giai đoạn viêm lan rộng hay đã thành áp xe khu trú. Chọc dò xác định là chắc chắn nhất, nếu có mủ. Ngoài ra, chọc  dò còn có giá trị trong chẩn đoán nguyên nhân, hoặc đôi khi là một phương tiện điều trị.

Chẩn đoán phân biệt

Giai đoạn viêm gan

Cần phân biệt với một số bệnh như viêm túi mật, sốt rét...Vấn đề căn bản để phân biệt ở đây là nghĩ tới nó, tìm phản  ứng miễn dịch đặc hiệu với amíp.

Khi áp xe thành hình

Có một số bệnh thường phải phân biệt như sau:

Ung thư gan, nhất là với thể áp xe gan trường diễn không gây nên các triệu chứng chức năng ồn ào, không sốt nhưng tình trạng toàn thân suy sụp dần và gan to, đôi khi có cổ trướng và phù chân trong trường hợp tới muộn.

Nang nước của  gan.

Ngoài ra, còn một số bệnh khác như: thương hàn hoặc nhiễm  trùng huyết trong áp xe tối cấp, sốt  rét, lao, bệnh do Brucella...là những trường hợp rất  hiếm và trong việc chẩn đoán phân biệt gặp nhiều khó khăn.

Chẩn đoán nguyên nhân

Cần phân biệt áp xe gan amíp với áp xe đường mật do sỏi hoặc giun trong trường hợp triệu chứng tắc mật không rõ, và với những áp xe do những nguyên nhân nhiễm trùng khác. Trong trường hợp này; làm thêm một số xét nghiệm khác như cấy máu, thử phản ứng miễn dịch đặc hiệu đối với amíp sẽ giúp xác định được nguyên nhân.

Tiên lượng

Áp xe gan vẫn là biến chứng tương đối nặng cúa các bệnh amíp đường ruột. Tuy nhiên, về mặt tiên lượng, có thay đổi khá nhiều từ khi metronidazol ra đời. Trừ một số rất hãn hữu có thể tự khỏi, còn thì tiên lượng phụ thuộc vào điều trị và kết quả đạt được sẽ tùy theo sự phát hiện sớm hay muộn, điều trị có đúng hay không.

Có những trường hợp sau một thời gian lại tái phát cấp diễn, bán cấp hoặc trường diễn, vì vậy mặc dù các triệu chứng viêm gan đã hết, vẫn phải tiếp tục  điều trị duy trì.

Nói như vậy không phải bao giờ tiến triển cũng tốt, mà có những trường hợp mặc dầu được điều trị đầy đủ vẫn tiến triển đến thành mủ. Khi áp xe thành hình, chọc hút, hoặc mổ dẫn lưu phối hợp với điều trị bằng Metronidazole và kháng sinh thường là khỏi.

Điều trị

Ta đã biết rằng áp xe gan là một giai đoạn tiếp diễn của một quá trình viêm gan lan rộng không được điều trị tốt mà trên các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng cũng khó biết được chắc chắn rằng bao giờ còn ở giai đoạn viêm gan và lúc nào đã thành mủ. Mục đích điều trị có hai phần: diệt amíp, dẫn lưu ổ mủ.

Điều trị nội khoa

Quá trình điều trị bằng thuốc của áp xe gan amíp có thể chia làm ba thời kỳ:  tấn công, duy trì và củng cố. Giai đoạn đặc biệt dành cho amíp khu trú ở gan; còn hai giai đoạn sau chỉ làm vững bền kết quả đạt được của giai đoạn đầu và mục đích là để diệt các thể khác của amíp ở ruột, là nguồn gốc  gây áp xe mới sau này.

Thực tế ở nước ta thường chỉ cần tiến hành một đợt điều trị tấn công là đủ, nên trong phần này chỉ trình bày phần điều trị tấn công.

Cho tới nay đối với amíp thuốc tốt nhất vẫn là metronidazol.

Điều trị ngoại khoa

Các phương pháp điều trị và chỉ định:

Đối với áp xe chưa gây biến chứng

Chọc hút mủ: từ 1908, Rogers đã đặt ra chọc  dò và hút mủ là một phương pháp  điều trị áp xe gan amíp. Kỹ thuật: gây tê tại chỗ, dùng kim to có đường  kính 10/10  dài 10-12 cm. Nơi chọc dò là chỗ tới ổ mủ ngắn nhất nghĩa là ở chỗ  đau và phồng nhất. Lấy mủ tìm amíp và vi trùng.

Chọc hút mủ dưới sự hướng dẫn của siêu âm là một phương pháp điều trị đơn giản, đưa lại kết quả tốt.

Đối với các biến chứng

Vỡ vào ổ bụng khu trú gây áp xe dưới cơ hoành: Chích dẫn lưu áp xe dưới hoành hoặc chọc hút dưới sự hướng dẫn của siêu âm.

Vỡ vào ổ bụng tự do: Mổ lau ổ bụng, dẫn lưu áp xe và dẫn lưu ổ bụng khi cần thiết.

Vỡ vào màng phổi: Điều trị nội khoa: Metronidazol, kháng sinh, và dẫn lưu màng phổi.

Vỡ vào màng phổi: Dẫn lưu như với mọi  trường hợp viêm mủ màng phổi khác.

Vỡ vào màng tim: Rất hiếm gặp, nếu có phải dẫn lưu ngay màng ngoài tim.

Bài viết cùng chuyên mục

Lâm sàng và điều trị thời kỳ suy mòn của bệnh bỏng

Nếu tính cả thải Protein qua phân, nước tiểu... mất Protein có thể đạt tới 100-200g/24h. Bỏng sâu mất Protein qua vết bỏng đạt 10mg/cm2/24h.

Công tác thay băng điều trị bỏng

Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng, nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng  hai ngày một lần 2. kỹ thuật thay băng.

Bệnh học bỏng trẻ em

Tính diện tích bỏng dựa theo bảng của Lund và Browder hoặc của Berkow chia bề mặt các phần cơ thể thành các đơn vị diện tích phù hợp với tuổi nhằm giúp chẩn đoán chính xác diện tích bỏng.

Bệnh học bỏng hóa chất

Trong quân đội và trong chiến tranh còn bị bỏng do các nhiên liệu lỏng của tên lửa và các hoá chất quân sự gây loét rộp da. Một số hoá chất khi tác dụng trên da và niêm mạc còn ngấm theo đường mạch máu vào cơ thể và có thể dẫn tới tử vong.

Bệnh học bỏng điện

Bỏng điện thường sâu, tổn thương tại chỗ biểu hiện ở điểm vào và ra của luồng điện, vị trí thường gặp là bàn tay, bàn chân. ở trẻ em có thể bỏng miệng, môi, lưỡi do ngậm vào cực điện.

Dấu hiệu triệu chứng lâm sàng sốc bỏng

Do thoát dịch, huyết tương từ lòng mạch ra khoảng gian bào, Nguyên nhân do tổn thương mao mạch, rối loạn vi tuần hoàn gây giãn mạch, tăng tính thấm

Điều trị sốc do bỏng

Băng ép vừa, theo dõi nếu băng chặt hoặc khi chi thể bị phù nề thì băng sẽ trở thành garo, nên phải nới băng, Nếu bị bỏng hoá chất phải băng bằng chất trung hoà.

Chẩn đoán độ sâu của tổn thương bỏng

Có rất nhiều phương pháp chẩn đoán diện tích, độ sâu của tổn thương bỏng, cùng với sự phát triên khoa học và công nghệ. Trong phạm vi bài giảng, chỉ đề cập những phương pháp cơ bản, dễ áp dụng trong thực tế.

Phẫu thuật điều trị bỏng

Khớp lớn của chi bị nhiễm trùng nặng do bỏng, là nguốn gốc của nhiễm trùng toàn thân, không thể sử dụng phẫu thuật mở bao khớp, dẫn lưu hay cắt đoạn.

Chẩn đoán diện tích bỏng

Sơ sinh thì đầu to, cổ ngắn, ngực bé, bụng to, Trong suốt giai đọan phát triển chi dưới tăng chiều 5 lần, chi trên 4 lần, thân 3 lần, đầu 2 lần

Thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng

Khám vết bỏng hàng ngày là công việc thường xuyên của bác sỹ điều trị bỏng để bổ xung chẩn đoán độ sâu của bỏng và chỉ định thuốc điều trị tại chỗ và toàn thân phù hợp.

Sử dụng các loại da và vật liệu thay thế da trong bỏng

Giảm đau cho người bệnh. Hạn chế mất dịch, máu qua vết thương. Hạn chế nhiễm khuẩn vết bỏng. Kích thích biểu mô hoá ở bỏng nông, kích thích tạo mô hạt ở bỏng sâu.

Xử trí thời kỳ đầu vết thương bỏng

Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.

Bỏng chiến tranh

Khi cháy tạo ra sức nóng cao, cháy lâu, có chất khi cháy tạo ra nhiều chất độc cho cơ thể, có chất gây bỏng đồng thời là chất độc cho cơ thể.

Hội chứng Dumping trong phẫu thuật dạ dày

Hội chứng Dumping là một nhóm các triệu chứng có thể xảy ra nếu bn có phẫu thuật để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần của dạ dày, hoặc nếu dạ dày của bệnh nhân đã được phẫu thuật nối tắt để giúp giảm cân.

Bệnh học ngoại chấn thương cột sống

Chấn thương cột sống nói chung chiếm khoảng 4-6% so với tất cả các chấn  thương. Trong thực tế khám chấn thương cột sống là khám  tổn thương ở đốt sống, đĩa đệm, dây chằng.

Bệnh học ngoại chấn thương sọ não kín

Chấn thương sọ não đã được nghiên cứu từ lâu. Từ thời Hyppocrat (460-377  trước Công  nguyên) đã có những công  trình nghiên cứu về chảy máu hộp sọ.

Bệnh học ngoại gẫy hai xương cẳng tay

Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng thì nắn các di lệch sang bên, gập góc còn lại

Bệnh học ngoại gãy thân xương cánh tay

Gãy giữa chỗ bám của cơ ngực lớn và chỗ bám của cơ delta: Đầu trên khép (do cơ ngực lớn kéo), đầu dưới di lệch lên và ra ngoài (do cơ delta kéo).

Bệnh học ngoại khoa bỏng

Bỏng là một chấn thương gặp trong cả thời bình và thời chiến. Trong chiến tranh tỷ lệ bỏng chiếm từ 3-10% tổng số người bị thương. Ở Mỹ một năm theo báo cáo có hơn 2 triệu người bị bỏng, trong đó khoảng 100.000 người phải nhập viện

Bệnh học ngoại gẫy thân xương đùi

Gãy xương đùi được phân loại theo giải phẫu học và vị trí đường gãy: 1/4  trên, 2/4 giữa, 1/4 dưới. Đối với gãy 1/4  trên sát mấu chuyển thì khó phân biệt gãy mấu chuyển.

Bệnh học ngoại gãy trên lồi cầu xương cánh tay

Gãy trên lồi cầu đứng thứ mười trong các loại gãy xương ở trẻ con nói chung, thường tỷ lệ biến chứng cao hơn so với các gãy chi khác, hay gặp di chứng vẹo khuỷu vào trong

Bệnh học ngoại gẫy xương cẳng chân

Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.

Bệnh học ngoại gẫy cổ xương đùi

Gãy cổ xương  đùi là các trường hợp gãy xương mà đường gãy là ở giữa chỏm và khối mấu chuyển. Thường gặp đối với người già, cho dù là một chấn thương nhẹ (như té đập mông). Rất hiếm gặp ở người trẻ và trẻ em.

Bệnh học ngoại u não

U não là một từ ngữ được các thầy thuốc lâm sàng gọi tên có tính cách quy  ước để chỉ các u trong sọ vì thực sự u trong mô não chỉ chiếm trên dưới 50% u trong sọ.

Bệnh học ngoại u xương

Ung thư xương là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào của xương, trong đó hay gặp nhất là ung thư liên kết tạo xương và tạo sụn. Đây là loại ung thư thường gặp ở thiếu niên và thanh niên trẻ.

Bệnh học ngoại vết thương sọ não hở

Vết thương sọ não hở là loại vết thương gặp cả trong chiến tranh và trong thời bình. Nhưng trong chiến tranh chiếm tỷ  lệ cao hơn (khoảng từ 7-10%  các loại vết thương do chiến tranh).

Bệnh học ngoại viêm xương

Viêm xương có thể tự nhiên, nhưng chấn thương đóng vai trò nào đó của sự khu trú tắc mạch xương trên một cơ quan bị nhiễm khuẩn.

Bệnh học ngoại lao xương

Lao xương giống viêm xương là hay gây tổn thương ở người trẻ, nhưng khác viêm xương, tổn thương của lao thường bắt đầu ở xương xốp sau đó lan ra xung quanh.

Bệnh học ngoại xơ vữa động mạch

Tổn thương khu trú ở lớp nội mạc, lớp nội mạc dày lên vừa phải. Các tế bào đặc trưng có chứa các tổ chức mỡ (tế bào bọt). Lớp áo giữa và áo ngoài bình thường.

Bệnh học ngoại viêm màng ngoài tim co thắt

Viêm màng ngoài tim co thắt có tràn dịch (1/3 trường hợp): Bệnh nhân trẻ, triệu chứng xuất hiện mới đây, tiền sử viêm màng ngoài tim do nhiễm khuẩn cấp.

Bệnh học ngoại ung thư phổi

Ung thư phổi là bệnh lý rất hay gặp trong phẫu thuật lồng ngực, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong những ung thư nói chung. Tỷ lệ bệnh ngày  càng tăng do ngày càng có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư.

Bệnh học ngoại u trung thất

U trung thất là một khối u có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của trung thất. Bao  gồm khối u nguyên phát, thứ phát; lành ác. Bệnh lý hay gặp nhất là u tuyến ức, u thần kinh, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới.

Bệnh học ngoại tắc động mạch cấp tính ở chi

Mảng xơ vữa bị loét: Các mảng xơ vữa này sau đó bị cục máu đông phủ lên trên, sự di chuyển của các cục huyết khối có thể tạo ra từng đợt gây thuyên tắc.

Bệnh học ngoại phình động mạch ngoại biên

Phình động mạch ngoại biên thường ít hơn phình động mạch chủ. Có nhiều nguyên nhân gây phình động mạch ngoại biên, trong đó nguyên nhân do xơ vữa động mạch thường gặp nhất.

Bệnh học ngoại thông động tĩnh mạch

Thông động tĩnh mạch là có sự lưu thông bất thường giữa động mạch và tĩnh mạch. Nguyên nhân phần lớn do chấn thương mạch máu. Vấn đề chẩn đoán cần phát hiện sớm và có thái độ xử trí kịp thời để tránh những biến chứng về tim mạch.

Bệnh học ngoại chấn thương mạch máu ngoại biên

Hậu quả lâm sàng của chấn thương động mạch không hằng định, nhưng khi có hậu quả trên lâm sàng là một tiêu chuẩn nặng của chấn thương động mạch.

Bệnh học ngoại gẫy xương hở

Gãy xương hở do nhiều nguyên nhân và chiếm hàng đầu là tai nạn lưu thông do các loại xe mô tô và ô tô. Trong thời bình tỷ lệ gãy xương hở chiếm khoảng 8-10% các tổn thương cơ quan vận động.

Bệnh học ngoại trật khớp háng

Ở người lớn trật khớp háng do chấn thương mạnh xảy ra do một lực tác động gián tiếp vào đầu dưới xương đùi, và vùng gối khi đùi gấp, xoay trong và khép, khớp gối ở tư thế gấp.

Bệnh học ngoại trật khớp vai

Trật khớp vai là loại trật khớp phổ biến nhất trong các loại trật khớp và thường gặp ở người lớn trẻ khỏe chiếm khoảng 50 - 60 % tổng số trật khớp. Nguyên nhân và cơ chế gây trật khớp thường thấy nhất do ngã chống bàn tay hoặc chống khuỷu trong tư thế tay dạng, đưa ra sau, và xoay ngoài.

Bệnh học ngoại trật khớp khuỷu

Chỉ gặp trật khớp khuỷu ra trước khi có gẫy mỏm khuỷu, các dây chằng bị đứt các cơ nhị đầu, cơ bám vào mỏm trên lồi cầu bị đụng giập hoặc rách.

Bệnh học ngoại vết thương ngực

Các rối loạn hô hấp tuần hoàn trong vết thương ngực hở do hậu quả hô  hấp  đảo ngược và lắc lư trung thất dẫn đến thiếu O2 trầm trọng, tình trạng toàn thân của bệnh nhân thay đổi nhanh chóng.

Bệnh học ngoại chấn thương ngực kín

Nguyên nhân gây chấn thương ngực kín: Do tai nạn giao thông chiếm 70%  trường hợp và 25% trường hợp chết tại chỗ.  Tỷ lệ tử vong thứ phát do 2 rối loạn: Suy hô hấp và suy tuần hoàn.

Bệnh học ngoại ung thư bàng quang

U bàng quang là loại u thường gặp nhất trong các loại u đường tiết niệu. Theo Hội ung thư Mỹ, thì năm 1994 có khoảng 51.200 bệnh nhân mới, và đã  có khoảng 10.600 bệnh nhân tử vong.

Bệnh học ngoại ung thư thận

Ung thư thận chiếm 90% các loại u ác tính nguyên phát ở thận. Bệnh thường xuất hiện ở người lớn trên 40 tuổi, với tỉ lệ nam gấp 2 lần so với nữ giới. Ung  thư thận chiếm 1-2% toàn bộ các loại ung thư ở người lớn.

Bệnh học ngoại u xơ tiền liệt tuyến

U xơ tiền liệt tuyến là một loại u lành tính thường gặp trong bệnh lý của hệ tiết niệu và thường xuất hiện ở nam giới lớn tuổi. Mặc dù có thể thấy u xơ tiền liệt tuyến xuất hiện ở người trẻ < 30 tuổi, nhưng chủ yếu là ở nam giới trên 60 tuổi.

Bệnh học ngoại chấn thương niệu đạo

Khi dương vật mềm, niệu đạo dài khoảng 16cm, trong đó, đoạn tiền liệt tuyến dài khoảng 2,5-3cm, đoạn màng khoảng 1,2cm và đoạn xốp khoảng 12cm.

Bệnh học ngoại chấn thương thận

Chấn thương thận bao gồm tất cả các thương tổn của nhu mô thận, đường bài xuất  nước tiểu trên và cuống thận. Giới nam thường bị hơn nữ, chiếm 75-80%, do đặc trưng về nguyên nhân của loại chấn thương này.

Bệnh học ngoại nhiễm khuẩn tiết niệu

Nhiễm khuẩn tiết niệu không đặc hiệu (Non- specific infection) là loại nhiễm khuẩn thường gặp của đường tiết niệu do các loại trực khuẩn gram (-) hoặc cầu khuẩn gram (+) gây nên.

Bệnh học ngoại dị dạng hậu môn trực tràng

Từ xưa người ta đã biết đến dị tật hậu môn - trực tràng dưới một tên thông dụng là "không có hậu môn”.  Mãi cho đến thế kỷ thứ VII Paulus là người đầu tiên đã áp dụng một phẫu thuật khoan thăm dò từ tầng sinh môn.

Bệnh học ngoại ống phúc tinh mạc

Sự tồn tại của ống phúc tinh mạc là một loại bệnh lý rất thường gặp ở trẻ em  mà bệnh cảnh lâm sàng thường biểu hiện bằng hai hình thái: Hình thái cấp tính đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật như thoát vị bẹn.

Bệnh học ngoại dị dạng bẩm sinh vùng rốn

Thoát vị cuống rốn là một dị dạng bẩm sinh trong đó một số tạng bụng trồi ra ngoài ổ bụng qua lỗ hổng của vành đai rốn tạo thành một khối phình được bọc kín bởi lớp phúc mạc nguyên thuỷ và lớp màng ối ở vùng rốn.

Bệnh học ngoại sỏi hệ tiết niệu

Sỏi hệ tiết niệu bao gồm sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và niệu đạo, sỏi thận, niệu quản và bàng quang hay gặp hơn: Sỏi thận là một bệnh phổ biến trên thế giới. Việt Nam nằm trong “vành đai” mắc sỏi thận khá cao.

Bệnh học ngoại phình đại tràng bẩm sinh (Hirschsprung)

Bệnh Hirschsprung có thể có biểu hiện lâm sàng rất sớm ở trẻ sơ sinh bằng bệnh cảnh tắc ruột cấp tính dễ đưa đến tử vong nếu không can thiệp kịp thời hoặc có biểu hiện bán cấp tính và mạn tính ở trẻ nhũ nhi.

Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú

Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú  mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.

Bệnh học ngoại tắc ruột sơ sinh

Tắc ruột sơ sinh là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp trong lĩnh vực ngoại nhi. Bệnh thường xảy ra trong 15 ngày đầu của đời sống. Bệnh liên quan mật thiết đến các ngành sản khoa và nhi khoa.

Bệnh học ngoại teo đướng mật bẩm sinh

Teo đường mật bẩm sinh rất hiếm gặp. Tại Nhật Bản và các nước châu á, tỷ  lệ bệnh khoảng 1/10.000 trẻ sơ sinh sống. Tỷ lệ nữ/nam = 1:0,64. Vấn đề chẩn đoán và điều trị rất phức tạp.

Bệnh học ngoại khoa phi đại hẹp môn vị

Hẹp phì đại môn vị là một bệnh ngoại khoa thường gặp ở giữa độ tuổi sơ sinh và bú mẹ (3 tuần-6 tháng). Bệnh có biểu hiện lâm sàng bằng hội chứng nôn  do hẹp lòng môn vị bởi sự phì đại thái quá của lớp cơ vùng môn vị.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị cơ hoành bẩm sinh

Thoát vị cơ hoành là tình trạng các tạng trong ổ phúc mạc đi vào trong lồng  ngực qua một lỗ khiếm khuyết của cơ hoành. Tần suất mắc bệnh, theo phần lớn tác giả, trong khoảng 1/2.000-1/5.000 trẻ sơ sinh sống.

Bệnh học ngoại khoa teo thực quản

Bệnh teo thực quản là hậu quả của rối loạn trong quá trình tạo phôi giữa tuần thứ 4 và tuần thứ 6, điều này giải thích cho hiện tượng teo thực quản thường kèm theo nhiều dị tật phối hợp khác.

Bệnh học ngoại khoa ung thư trực tràng

Ung thư trực tràng là một bệnh thường gặp ở Việt Nam cũng như trên thế  giới. Khoảng 8000 trường hợp ung thư trực tràng ở Pháp mỗi   năm.  Tỷ  lệ nam/nữ là 1,5.

Bệnh học ngoại khoa ung thư đại tràng

Ung thư đại  tràng là loại ung thư hay gặp đứng  hàng  thứ hai trong các  loại ung thư đường  tiêu hoá  và  là  một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong  do ung thư nói  chung.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị đùi

Khi lỗ thoát vị đùi ở vị trí này phải chú ý: Phía ngoài cổ túi có tĩnh mạch đùi và phía trên cổ túi có động mạch thượng vị và nhánh nối động mạch thượng vị với mạch bịt.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị bẹn

Thoát vị là tình trạng các tạng bên trong ổ phúc mạc đi ra ngoài ổ phúc mạc trong một túi thừa phúc mạc gọi là “túi thoát vị”, qua các điểm yếu tự nhiên của thành bụng. Các điểm yếu này có thể là bẩm sinh hay mắc phải.

Bệnh học ngoại khoa tắc ruột

Tắc ruột do liệt ruột gặp trong các trường hợp: sỏi tiết niệu, chấn thương cột sống hoặc khung chậu (tụ máu sau phúc mạc), viêm phúc mạc, viêm phúc mạc mật, tràn dịch tiêu hóa hoặc dịch tụy trong ổ phúc mạc.

Bệnh học ngoại khoa viêm ruột thừa cấp

Viêm ruột thừa cấp là một trong những bệnh lý cấp cứu ngoại khoa hay gặp nhất. Tần suất viêm ruột thừa cấp song hành với tần suất của quá trình phát triển của mô bạch huyết, với tỷ lệ cao nhất ở giai đoạn đầu của thập niên.

Bệnh học ngoại khoa vết thương thấu bụng

Thực tế khi có vết thương trực tiếp vào thành bụng mà không xuất hiện hội chứng mất máu cấp tính hoặc hội chứng viêm phúc mạc, chúng ta chỉ cần mở rộng thăm dò tổn thương thành bụng.

Bệnh học ngoại khoa chấn thương bụng kín

Chấn thương bụng kín hay gọi là chạm thương bụng bao gồm cả những tổn  thương về bụng, tổn thương có thể chỉ ở ngoài thành bụng nhưng có thể tổn thương các tạng đặc trong ổ bụng (như gan, lách, tụy...).

Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa

Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của  đường tiêu hoá.

Bệnh học ngoại khoa ung thư gan

Ung thư gan nguyên phát ở các nước Âu - Mỹ rất hiếm gặp chiếm khoảng 1-2% các loại ung thư. Trong khi châu á, Phi rất hay gặp. Đây là loại ung thư tiến triển rất nhanh và điều trị đang còn gặp nhiều khó khăn.

Bệnh học ngoại khoa sỏi ống mật chủ

Khi tắc mật, dịch mật không xuống tá tràng mà ứ đọng trong gan. Sắc tố mật, muối mật vào máu, bilirubin máu tăng cao, do sắc tố mật có màu vàng nên da, giác mạc mắt có màu vàng.

Bệnh học ngoại khoa ung thư dạ dày

Ung  thư dạ dày là một trong những ung thư ống tiêu hóa thường gặp, trong thực tế tiên lượng vẫn không thay đổi nhiều từ nhiều năm nay. Thời gian sống đến 5 năm của  ung thư dạ dày khoảng 15% và thời gian sống 5 năm sau phẫu thuật triệt căn khoảng 30%. 

Bệnh học ngoại khoa hẹp môn vị

Loét dạ dày-tá tràng là nguyên nhân hay gặp nhất. Tất cả mọi vị trí của ổ loét ở dạ dày hay tá tràng, ở gần hay xa môn vị, đều có thể gây nên hẹp môn vị tạm thời hay vĩnh viễn.

Bệnh học ngoại khoa thủng dạ dày tá tràng

Thủng ổ loét dạ dày - tá tràng là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Chẩn đoán thường dễ vì trong đa số trường hợp các  triệu chứng khá điển hình, rõ rệt.

Bệnh học ngoại khoa ung thư thực quản

Ung thư thể thâm nhiễm chủ yếu phát triển ở lớp niêm mạc xâm lấn vào lớp dưới niêm mạc rồi vào lớp cơ, phát triển theo hình vòng nhẫn, do đó làm ống thực quản bị chít hẹp.