Y học cổ truyền với miễn dịch và khả năng kháng khuẩn

2013-07-13 09:31 AM

Phản ứng miễn dịch bao gồm ; choáng phản vệ loại bỏ protein lạ, mày đay nổi mẩn... cố định các dị nguyên ở vùng viêm không cho lan rộng ra toàn thân.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thuốc y học cổ truyền có tác dụng trên miễn dịch tế bào, miễn dịch dịch thể và điều tiết miễn dịch.

Khái niệm

Quan điểm của y học cổ truyền: “Tự ngã thức biệt“, “Bài trừ dị kỉ“. Bình thường, chức năng miễn dịch của cơ thể có 3 loại tác dụng lớn:

Tự thân ổn định (trung hòa các dị nguyên).

Cố định các dị nguyên (vô hiệu hóa).

Dự phòng các bệnh truyền nhiễm, cảm nhiễm.

Theo Von Pirquet (1929 - 1974), phản ứng miễn dịch bao gồm ; choáng phản vệ loại bỏ protein lạ, mày đay nổi mẩn... cố định các dị nguyên ở vùng viêm không cho lan rộng ra toàn thân. Nhưng do quá mức (thái quá) mà cơ thể không những không tự bảo vệ được mình mà còn gây ra rối loạn chức năng các tổ chức cơ quan trong cơ thể.

Quan điểm y học cổ truyền, theo Tần Vạn Chương và Nại Duy Lập (Thượng Hải, 1988):

Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư.

Chính khí tồn nội, tà bất khả can”.

Nghĩa là tác nhân gây bệnh ở da, cơ sẽ làm tổn thương sức đề kháng của cơ thể, và ngợc lại sức đề kháng tốt thì tác nhân gây bệnh không thể xâm phạm vào da, cơ của cơ thể được.

Nội dung

Mối liên hệ giữa dược lý, miễn dịch với lý luận y học cổ truyền

Lý luận hư , thực, vệ khí, can tỳ của Trung y với quan điểm miễn dịch học hiện đại có nhiều điểm gần nhau. Hai nguyên tắc điều trị lớn của Trung y là phù chính và trừ tà có sự tương quan mật thiết với miễn dịch trị liệu. Chính hư lấy phù chính là chủ; tà thực lấy trừ tà làm chủ; hư thực kiêm hiệp tức là kết hợp cả phù chính và trừ tà. Phù chính là nâng cao sức đề kháng ; trừ tà là đuổi tác nhân gây bệnh ra ngoài cơ thể hoặc tiêu trừ tác nhân gây bệnh.Thông qua tác dụng phù chính với trừ tà để điều hòa sự ổn định và tăng cường chức năng miễn dịch bảo vệ cơ thể đạt được mục đích bài trừ và khống chế bệnh tà.

Hư chứng: Là chỉ chính khí bất túc, cơ thể phát sinh phản ứng miễn dịch quá mạnh, như bệnh miễn dịch tự thân (luput ban đỏ), cũng có thể là chức năng miễn dịch của cơ thể quá suy giảm mà mất đi phản ứng miễn dịch đối với kháng nguyên hoặc giảm khả năng chống viêm nhiễm. Đối với các chứng bệnh, đa phần phải dùng thuốc phù chính để điều trị. Thuốc phù chính đa phần có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể.

Thực chứng: Là chỉ tà khí hữu dư nên phải dùng phương pháp trừ tà để điều trị, tức là phải trọng dụng các thuốc: thanh nhiệt - giải độc, thuốc hoạt huyết - hóa ứ và thuốc trừ phong thấp . Các loại thuốc này đa phần có tác dụng ức chế chức năng miễn dịch của cơ thể hoặc là vừa ức chế vừa hỗ trợ, tức là ngoài ức chế miễn dịch còn có tác dụng tăng cường miễn dịch.

Phù chính - trừ tà là nguyên tắc điều trị quan trọng của Y học Cổ truyền, cũng là phương pháp cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa chính và tà. Sự liên quan chặt chẽ giữa phù chính - trừ tà với miễn dịch liệu pháp góp phần nâng cao hiệu quả điều trị một số bệnh tự thân miễn dịch, như: luput ban đỏ, xơ cứng bì, ngân tiết bệnh... và nham chứng.

Có nhiều báo cáo tổng kết nghiên cứu: Thuốc bổ ích khí - huyết đa phần có tác dụng tăng cường miễn dịch; thuốc điều hòa âm - dương đa phần có tác dụng điều tiết miễn dịch.Thuốc sơ phong - thanh nhiệt - lợi thấp đa phần có tác dụng tiêu viêm, thoái mẫn.Thuốc tiêu viêm - hóa ứ đa phần có tác dụng ức chế miễn dịch.

Tác dụng điều tiết miễn dịch của thuốc phù chính

Trung y cho rằng “Hư tắc bổ”. Nhưng hư chứng có hay không có suy giảm chức năng miễn dịch? Có một số người cho rằng, phù chính có thể là tiền đề cho tăng cường công năng miễn dịch. Bệnh luput ban đỏ chủ yếu liên quan với thận hư tiên thiên bản tạng bất túc ?.

Tần Vạn Lập nghiên cứu về bản chất của bệnh đã phát hiện đa số bệnh nhân bị luput ban đỏ có biểu hiện triệu chứng thận hư . Sau khi ông cho những bệnh nhân này dùng thuốc bổ thận liều nhẹ thì các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng đều được cải thiện rõ rệt.

Trong nghiên cứu cơ chế thận hư , các tác giả đã chứng minh được thuốc bổ thận có thể điều chỉnh và nâng cao tính phản ứng hệ thống của chất vỏ thượng thận và tuyến yên. Điều này có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn trong việc dùng kích tố nội tiết. 

Trong những thập kỷ gần đây, kết hợp Trung - Tây y để điều trị các bệnh tự thân miễn dịch ngày càng được phát triển và đã thu được hiệu quả cao. Tại các trung tâm nghiên cứu Y học Cổ truyền của Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, có nhiều tác giả nhận thấy luput ban đỏ, viêm da - cơ, xơ cứng bì... đều là chứng hư ở mức độ khác nhau. Sau khi điều trị bằng thuốc phù chính thì hầu hết các bệnh nhân, qua kiểm tra xét nghiệm và lâm sàng, đều thấy các chỉ tiêu miễn dịch được cải thiện, bệnh ổn định.

Theo nghiên cứu của Y viện Hiệp Hoà - Bắc Kinh, điều trị bệnh viêm da - cơ cấp tính bằng “thanh doanh giải độc thang gia giảm” và điều trị viêm da - cơ mãn tính bằng “bổ trung ích khí gia giảm” kết hợp với kích tố và điều trị hỗ trợ khác. Trong tổng số 27 bệnh nhân, thấy kết quả tốt 24, không kết quả và tử vong 3 (vì có kết hợp với nham chứng). 

Những nghiên cứu của các địa phương trên đã chứng minh các vị thuốc bổ ích khí - huyết có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch (nhân sâm, bạch truật, tử hà sa, ngũ gia bì, hà thủ ô...).

Theo Lưu Minh Nhuệ(Tạp chí Trung y, 1995), nghiên cứu điều chế thuốc từ hoàng kỳ để điều trị bệnh vẩy nến thể thông thường, dùng hoàng kỳ chế (gồm: hoàng kỳ sắc, cao hoàng kỳ và hoàng kỳ dạng tiêm ) để điều trị 204 bệnh nhân bị bệnh vẩy nến thể thông thường, thấy kết quả : khỏi hoàn toàn 47 (20,6%), khỏi cơ bản 62 (30,4%), tiến triển tốt 94 (44,6%), không kết quả 9 (4,4%). Tổng số bệnh nhân có tỷ lệ tốt là 95,6%. Theo dõi chỉ tiêu miễn dịch trước và sau điều trị “hoàng kỳ chế tễ” thấy ở những bệnh nhân vẩy nến thể thông thường đều có tác dụng tăng cường miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Trong những năm gần đây, hoàng kỳ được dùng làm thuốc bổ khí và còn được dùng trong điều trị bệnh tạo keo ngày càng nhiều ; vì người ta cho rằng, hoàng kỳ có tác dụng kích thích các trung tâm miễn dịch của cơ thể.

Tất cả những nghiên cứu trên , một mặt là ứng dụng sự điều tiết miễn dịch của thuốc phù chính - trừ tà; mặt khác là nghiên cứu dược lý học và miễn dịch để phát hiện chuyển hoá limpho bào trên thực nghiệm, thông qua phương pháp kiểm tra trắc nghiệm. Y học Cổ truyền đã nghiên cứu 4 phương thuốc bổ:

Bổ khí: “tứ quân tử thang”.

Bổ huyết: “tứ vật thang”.

Bổ âm: “lục vị địa hoàng hoàn”.

Bổ dương: “sâm phụ thang”.

Người ta đã chứng minh và kết luận một số bài thuốc trên có khả năng xúc tiến chuyển hóa limpho bào, kích thích phản ứng miễn dịch tế bào và hình thành kháng thể.

Thực tiễn lâm sàng đã chứng minh các loại bệnh thuộc hư chứng , dù ở các mức độ khác nhau , đều có suy giảm chức năng miễn dịch rõ rệt. Vì vậy, khi dùng các phương thuốc phù chính để bổ dưỡng đã thu được hiệu qủa nhất định.

Tác dụng điều tiết miễn dịch của thuốc trừ tà

Theo Y học cổ truyền: Tà thực lấy trừ tà là chủ để điều trị, tức là khu trừ bệnh tà, khôi phục lại sự cân bằng của cơ thể mà đạt hiệu qủa điều trị. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu đã phát hiện nhiều loại thuốc trừ tà có khả năng điều chỉnh chức năng miễn dịch của cơ thể.

Thuốc trừ tà thường dùng là các nhóm thuốc: Hoạt huyết - hóa ứ; thanh nhiệt - giải độc ; thuốc trừ thấp.

Các nghiên cứu cho thấy, đại bộ phận các thuốc hoạt huyết - hóa ứ có tác dụng ức chế phản ứng miễn dịch bệnh lý của cơ thể. Đối với một số bệnh tự thân miễn dịch và phản ứng biến thái thì có hiệu qủa rất tốt. Một số tư liệu đã chứng minh một số thuốc hoạt huyết- hóa ứ có tác dụng tăng cường công năng miễn dịch cơ thể. Những năm trước đây người ta chỉ chú ý đến tính kháng khuẩn, kháng siêu vi khuẩn của thuốc thanh nhiệt - giải độc, thì ngày nay người ta đã phát hiện ra nhiều loại thuốc thanh nhiệt - giải độc có tác dụng tăng cường công năng miễn dịch của cơ thể. Tuy nhiên, cũng có một số thuốc thanh nhiệt - giải độc lại có tác dụng ức chế miễn dịch. Ngoài ra nhiều loại thuốc sơ phong - trừ thấp có tác dụng tiêu viêm thoái mẫn.

Tác dụng ức chế miễn dịch của thuốc trừ tà:

Trong những năm gần đây, bằng kết hợp Trung - Tây y, các nghiên cứu ứng dụng một số thuốc trừ tà để điều trị bệnh tự thân miễn dịch và bệnh biến thái phản ứng tính trạng thái quá mẫn cảm gây phản ứng quá mẫn đã thu được kết qủa tốt. Y học hiện đại cho rằng: sở dĩ bệnh tự thân miễn dịch và phản ứng biến thái tính bệnh tật là do kích thích của kháng nguyên đã phát sinh phản ứng miễn dịch quá mẫn, gây nên một loạt các biến đổi chức năng trong cơ thể.

Quan sát lâm sàng và thực nghiệm, người ta thấy một số thuốc trừ tà có tác dụng ức chế các phản ứng quá mẫn, tuy ở mức độ khác nhau nhưng đều đạt kết quả điều trị tốt. 

Học viện Y 1 - Thượng Hải chọn mặt bệnh luput ban đỏ để nghiên cứu tác dụng của thuốc “hoạt huyết - hóa ứ là chủ”.

Cẩm Hồng Phương dùng bài thuốc hoạt huyết - hóa ứ ( gồm: Đại hoàng, hồng hoa, xích thược, bạch thược, tần cửu, hoàng tinh, cam thảo) để điều trị luput ban đỏ. Dựa vào chỉ tiêu miễn dịch trước và sau điều trị, tác giả kết luận thuốc hoạt huyết hóa ứ có tác dụng ức chế phản ứng quá mẫn.

Tần Vạn Chương lấy dịch triết của xích thược, hoàng đằng dưới dạng thuốc tiêm và dùng thuốc hoạt huyết - hóa ứ điều trị luput ban đỏ, quan sát điều trị đến khi bệnh ổn định thấy các chỉ tiêu miễn dịch của nó đều được cải thiện. Đồng thời trải qua hàng chục năm nghiên cứu kết hợp dùng vị thuốc “ lôi công đằng chế tễ” (chế phẩm từ cây rau má) để điều trị luput ban đỏ, tác giả nhận thấy tỷ lệ khỏi cao (79,4 » 91%), các triệu chứng phát sốt, đau khớp , tổn thương da đều được cải thiện ; các tổn thương nội tạng đều có chuyển biến tốt. Các xét nghiệm hệ thống máu, anbumin niệu, chức năng gan và thận đều được cải thiện tốt, tốc độ máu lắng hạ thấp; Các chỉ tiêu miễn dịch tế bào, globulin miễn dịch, chức năng tế bào limpho đều có chuyển biến tốt.Tác giả rút ra kết luận: lôi công đằng có tác dụng chống viêm, điều tiết công năng miễn dịch. Những nghiên cứu của Viện Y 1 - Thiên Tân đã ứng dụng thuốc thanh nhiệt - giải độc: Kim ngân hoa, liên kiều, bản lam căn (rễ của thanh đại diệp - lá chàm mèo - cây bọ mắm), nhưng thanh đại diệp là chính để ức chế phản ứng quá mẫn trong điều trị bệnh luput ban đỏ, có hiệu quả rõ rệt.

Học viện Trung y - Quảng Châu dùng bài “thanh ôn bại độc ẩm” để điều trị bệnh viêm da - thần kinh cũng thu được kết quả tốt. Thuốc thanh nhiệt - giải độc không những có tác dụng kháng khuẩn, kháng bệnh độc cảm nhiễm mà còn có thể ức chế phản ứng quá mẫn, tiêu trừ phức hợp miễn dịch, từ đó ức chế có hiệu quả các phản ứng miễn dịch.

Tác dụng tăng cường miễn dịch của thuốc trừ tà:

Căn cứ vào nghiên cứu thực nghiệm các hội chứng "thực chứng" người ta nhân thấy một số thuốc hoạt huyết - hóa ứ và thanh nhiệt - giải độc có tác dụng tăng cường miễn dịch bao gồm: số lượng bạch cầu tăng cao, xúc tiến bạch cầu khổng lồ tăng thực bào, xúc tiến tăng chuyển hóa tế bào limpho, hình thành các IL2 (Interlerkill2), và hình thành kháng thể. Thông qua sử dụng một số thuốc điều trị trên lâm sàng nhiều tác giả đã thu được kết quả nhất định. Tổng hợp các báo cáo phát hiện phương thuốc “bạch hổ thang” có tác dụng xúc tiến chức năng thực bào của đại thực bào tương đối tốt. Bài “quế chi gia truật thang” có tác dụng ức chế quá mẫn, trung hòa kháng nguyên và sản sinh kháng thể.

Thực nghiệm còn chứng minh, bài thuốc “bài nùng thang” và “bài nùng tán” đều có tác dụng ức chế rõ đối với bạch cầu đa nhân. Kết qủa thực nghiệm trên chuột cống cho thấy 2 phương thuốc trên đều có tác dụng ức chế và xúc tiến dòng bạch cầu đa nhân, tác dụng này phụ thuộc vào loại thuốc và nồng độ thuốc; bài thuốc “tiểu thanh long thang” có tác dụng ức chế globulin E miễn dịch (IgE), ức chế quá mẫn.

Ngoài ra, các loại thuốc trừ tà, thuốc lợi thấp - sơ phong phần nhiều có tác dụng tiêu viêm thoái mẫn.

Các phương thuốc thường dùng là: “ma hoàng thang”, “sơ phong thanh nhiệt ẩm”, “trừ thấp vị linh thang”, “tần cửu ngưu bàng thang”, “đan bì ẩm”, “toàn trùng phương”, “lương huyết giải độc thang”, “long đờm thảo tả can thang”.

Những báo cáo lâm sàng về tác dụng tăng cường miễn dịch của thuốc trừ tà ngày càng nhiều, nhưng thực nghiệm chưa được đầy đủ. Tuy nhiên, người ta cũng thống nhất kết luận thuốc phù chính và trừ tà đều có tác dụng điều tiết miễn dịch. Trên lâm sàng thường dùng kết hợp cả hai phương pháp này để điều trị bệnh ngoài da.

Theo báo cáo của Vương Đức Tuệ, phối hợp thuốc phù chính - trừ tà với lôi công đằng (tích tuyết thảo) để điều trị 36 bệnh nhân vẩy nến (ngân tiết bệnh) thấy có hiệu quả khá mỹ mãn. Trong điều trị , tác giả đã chọn dùng lôi công đằng kết hợp với biện chứng luận trị , lựa chọn một số thuốc phù chính - trừ tà để tổ chức phương thuốc:

Một số vị thuốc thường dùng để trừ tà: Thổ phục linh, bạch hoa xà thiệt thảo, tử thảo, hoàng liên, hoàng cầm, sơn đậu căn, long quí, ô tiêu xà, chích ngô công, cương tàm, kim ngân hoa, khổ sâm, xuyên khung, đan sâm, nga truật, đại hoàng và thuyền y. Một số vị thuốc thường dùng để phù chính: Đẳng sâm, hoàng kỳ, thủ ô, sinh địa, xích bạch thược, bạch truật, phục linh, hồng táo, hoàng tinh, sơn dược, biển đậu, thích ngũ gia bì, hoàng kỳ thích (hoàng kỳ gai).

Theo báo cáo của Tôn Khánh Quí: Dùng các thuốc thanh nhiệt - giải độc , hoạt huyết - hóa ứ và bổ dưỡng khí - huyết kết hợp với quế chi tạo thành “quế thanh thang” đã điều trị khỏi cho 9 bệnh nhân vẩy nến thể mụn mủ.

Phương thuốc:

Phục linh 15g Quế chi 15g.

Đan bì 15g Đào nhân 15g.

Bạch thược 15g Hoàng liên 10g.

Hoàng cầm 15g Hoàng bá 15g.

Sinh thục địa 15g Đương qui 15g.

Xuyên khung 15g Hoàng kỳ 30g.

Tất cả những báo cáo dẫn liệu trên chứng tỏ thuốc phù chính - trừ tà dùng để điều trị đều liên quan mật thiết đến vấn đề miễn dịch, hoặc là ức chế hoặc là tăng cường hay là điều hòa miễn dịch. Chính vì vậy sử dụng các thuốc này đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ trong điều trị lâm sàng.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: hội chứng nhiệt nhập tâm bào

Tâm bào lại là ngoại vệ của Tâm, bảo vệ cho Thiếu âm quân hỏa, Do đó, dù ngoại tà là loại gì, khi vào đến quyết âm gây bệnh thì hội chứng của nó sẽ biểu hiện mang thuộc tính của phong, của Hỏa.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: vị nhiệt úng thịnh

Nhiệt tà phạm Vị làm tiêu hao tân dịch, khô khát, lở miệng, tiểu sẻn. Đồng thời, nhiệt tà làm bức huyết, chảy máu răng miệng, Vị lạc với Tâm, Thần minh nên gây bức rức, cuồng sảng.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: tỳ vị thấp nhiệt

Ngoài tính chất của thử (nhiệt) tà là làm hao khí, tổn hao tân dịch và thấp tà làm trở trệ hoạt động của khí đưa đến ngăn trở hoạt động công năng của Ty Vị và làm hao tổn tân dịch của Vị

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: hàn thấp khốn tỳ

Ngoài tính chất hàn tà làm dương khí tụ lại, thấp tà làm cản trở hoạt động của khí đưa đến ngăn trở công năng hoạt động của Tỳ Vị.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: đại trường hàn kết

Tính chất của Hàn tà là làm cho khí tụ lại khiến công năng truyền tống phân của Đại trường bị ngưng trệ, Ngoài ra, trên lâm sàng còn có những biểu hiện của Hàn khí như mặt trắng, sợ lạnh, tay chân mát.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: thấp nhiệt đại trường

Tính chất nhiệt tà làm tổn khí và hao tân dịch. Tính chất của Nhiệt tà làm trở trệ khí, Khi 2 yếu tố này liên kết nhau thì 1 yếu tố gây bạo chú, ói ỉa, 1 yếu tố gây trở trệ như mót rặn.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: nhiệt kết đại trường

Nhiệt tà có tính chất tổn khí và hao tân dịch, do đó sẽ ảnh hưởng đến chức năng truyền tống của phủ Đại trường cũng như hao tổn âm dịch của phủ Đại trường.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: táo khí thương phế

Táo tà là dương tà có tính chất làm thương tổn âm dịch của Phế, do đó khi Phế âm bị thương tổn thì Phế khí cũng bị thương tổn theo.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: phong nhiệt phạm phế

Nhiệt tà là dương tà có tính chất làm hao khí và tổn âm dịch. Đồng thời, Phong và Nhiệt tà lại có tính chất tương trợ cho nhau nên thể bệnh rất mạnh, lúc đó nhiệt làm bức huyết.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: phong hàn thúc phế

Phong là dương tà có đặc điểm biến hóa nhanh, là nhân tố hàng đầu của mọi bệnh, và thường kết hợp với các tà khác để gây bệnh.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: hàn trệ can mạch

Kinh Can, trong lộ trình ở vùng bẹn, vòng quanh bộ phận sinh dục, qua bụng dưới tản ra 2 bên chânm hàn tà xâm phạm Can mạch làm kinh khí ngưng trệ nên có biểu hiện đau bụng, sán khí.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: can đởm thấp nhiệt

Đau vùng hông sườn hoặc các triệu chứng ở bộ phận sinh dục, vùng quản lý của Can mang tính chất Thấp và Nhiệt.

Băng lậu: huyết ở âm đạo ra nhiều hoặc lai rai không dứt

Băng lậu có cùng gốc nhưng thể hiện chứng trạng có khác nhau, nếu băng lậu lâu ngày không cầm, thế bệnh nặng dần sinh ra băng.

Bế kinh: điều trị bằng y học cổ truyền

Phần nhiều là âm huyết bất túc, huyết hư do mất máu nhiều, đổ mồ hôi trộm, phòng lao, sinh đẻ nhiều hoặc Tỳ Vị hư yếu nên không sinh huyết hoặc trùng tích.

Thống kinh: điều trị bằng y học cổ truyền

Đau bụng kinh là sự ngăn trở vận hành khí và huyết. Vì kinh nguyệt là do huyết hóa ra, huyết lại tùy vào khí để vận hành, do đó khi khí huyết hòa thuận, sung túc thì không gây đau bụng khi hành kinh.

Kinh nguyệt ít: điều trị bằng y học cổ truyền

Tạng Thận khai khiếu ở tiền âm, hậu âm lại là chủ tể của cơ quan sinh dục, cho nên khi các chức năng của các tạng trên rối loạn đều có thể tác động đến chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ.

Kinh nguyệt nhiều: điều trị theo y học cổ truyền

Thận cũng ảnh hưởng rất lớn về nguyệt kinh. Thật vậy, Tâm chủ huyết, Tỳ thống huyết, Can tàng huyết. Mạch Can liên lạc với âm khí, quản lý phần bụng dưới.

Kinh nguyệt không định kỳ: điều trị theo y học cổ truyền

Các nguyên nhân trên làm cho khí huyết của mạch Xung, mạch Nhâm và Bào cung mất điều hòa, mà gây nên những rối loạn chu kỳ kinh nguyệt.

Kinh nguyệt đến sau kỳ: điều trị theo y học cổ truyền

Khí huyết của mạch Xung, mạch Nhâm bắt đầu đầy đủ thịnh vượng thì hành kinh đúng chu kỳ mỗi tháng. Đến trên dưới 49 tuổi thì khí huyết của mạch Xung, mạch Nhâm suy yếu dần.

Kinh nguyệt trước kỳ: nguyên tắc điều trị theo y học cổ truyền

Đối với người phụ nữ thì bào cung là khí quan riêng biệt, chuyên chủ việc kinh nguyệt và hệ bào, nơi phát nguồn của mạch Xung, mạch Nhâm.

Bệnh chứng tâm tiểu trường

Tâm huyết uất trệ là bệnh cảnh đặc biệt do 1 biểu hiện thực chứng trên nền tảng hư chứng. Đó là cơ thể có sẵn khí hư hoặc dương hư sinh ra đờm trọc, đờm trọc ngưng tụ làm ảnh hưởng đến sự vận hành chu lưu toàn thân của Huyết.

Viêm sinh dục nữ: điều trị bằng y học cổ truyền

Trong phạm vi bài này bao gồm tất cả các tên được phân loại theo màu sắc, tính chất, dịch tiết như Bạch đới, Hoàng đới, Bạch dâm, Bạch băng, Thanh đới, Bạch trọc, Xích đới, Hắc đới, Xích bạch đới, Ngũ sắc đới.

Bệnh học và điều trị ngoại cảm ôn bệnh

Khí cũng là dạng vật chất cơ bản để tạo thành và duy trì sự sống của con người. Nó tồn tại trong các tổ chức tạng phủ và thông qua các hoạt động cơ năng của tạng phủ để phản ảnh ra ngoài.

Đởm lạc kết thạch, cảm nhiễm (sỏi và viêm đường dẫn mật)

Sỏi đường mật cần được chẩn đoán phân biệt với u đầu tuỵ, viêm tuỵ mạn thể tắc mật, ung thư bóng Vater, viêm vi quản mật tiên phát và những trường hợp hoàng đản.

Y học cổ truyền động kinh (đông y)

Đặc điểm chủ yếu của bệnh là lên cơn đột ngột, ngắn và tái phát nhiều lần, có những rối loạn về ý thức, cảm giác và chức năng thần kinh thực vật, giữa 2 cơn hoạt động của cơ thể là bình thường.

Đường niệu bệnh, tiêu khát (đái tháo đường)

Phiền khát uống nhiều, uống không giảm khát, miệng khô lưỡi ráo, cấp táo hay giận, bức nhiệt tâm phiền, niệu phiền lượng nhiều hoặc đại tiện táo kết, mạch huyền sác hoặc hoạt sác.

Y học cổ truyền đau dây thần kinh tọa

Đau dây thần kinh tọa được định nghĩa là một hội chứng thần kinh có đặc điểm chủ yếu là đau dọc theo lộ trình của dây thần kinh tọa và các nhánh của nó, nguyên nhân thường do bệnh lý đĩa đệm ở phần thấp của cột sống.

Y học cổ truyền đại tràng kích thích (đông y)

Đau bụng với cảm giác quặn thắt và giảm sau khi đi xong, bệnh nhân thường táo bón hoặc xen kẽ với tiêu chảy và tiêu chảy nếu có thường xảy ra sau khi ăn phải một số thức ăn.

Y học cổ truyền suy nhược mãn tính

Do mắc bệnh lâu ngày, làm cơ thể suy yếu, Thận âm, Thận dương suy, Thận âm suy hư hỏa bốc lên, Thận dương suy chân dương nhiễu loạn ở trên.

Y học cổ truyền hen phế quản (đông y)

Có thể có triệu chứng báo hiệu hắt hơi, sổ mũi, ho khan, tức ngực, Chủ yếu khó thở thì thở ra, cơn nặng phải ngồi chống tay, há miệng thở, cơn có thể kịch phát hoặc liên tục.

Hư lao: suy nhược cơ thể

Tâm quí kiên vong, huyền vựng, sắc mặt gầy bệch, khí đoản gầy gò, ngủ hay mơ, dễ tỉnh giấc,ăn không ngon miệng, hoặc bụng đau tiện lỏng, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch tế nhược.

Y học cổ truyền liệt mặt nguyên phát (đông y)

Sau khi rời thân não, dây thần kinh mặt, có kèm theo dây phụ Wrisberg, động mạch và tùng tĩnh mạch, chạy xuyên qua xương đá trong một ống xương: vòi Fallope.

Ngải tư bệnh (HIV, AIDS)

Chính khí hư dễ dẫn đến ngoại tà, tà độc phục cảm và dẫn đến chính hư tà thực thì bệnh tình càng trở nên nghiêm trọng và dẫn đến tử vong.

Ngân tiết bệnh (bệnh vẩy nến)

Về điều trị, hiện nay còn rất nhiều khó khăn, chưa có phương pháp nào chữa khỏi bệnh vẩy nến nhưng có nhiều phương pháp làm sạch tổn thương vẩy nến bằng các thuốc tân dược.

Y học cổ truyền mỡ máu tăng cao

Do mỡ dạng hoà tan trong huyết tương hoặc kết hợp mỡ hòa tan với albumin để vận chuyển đi toàn thân gọi là chứng mỡ.

Y học cổ truyền nhiễm trùng tiết niệu (đông y)

E. Coli chiếm 80% trong các nhiễm trùng tiểu không do thủ thuật niệu khoa, không do bất thường giải phẫu học hệ niệu và không do sỏi.

Nhũ nham: ung thư vú

Tâm phiền táo trằn trọc, mặt mắt đỏ, đau vú dữ dội, chất lưỡi đỏ có nhiều ban đỏ ứ huyết, lưỡi thường không rêu, mạch huyền sác.

Y học cổ truyền nhược năng tuyến giáp (viêm tuyến giáp Hashimoto)

Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của nó là tinh thần uất ức kéo dài, tình chí thất thường, can mất điều hoà dẫn đến can khí uất kết, khí trệ huyết ứ.

Niệu lạc kết thạch (sỏi niệu quản)

Bản chất bệnh tương đối phức tạp, thường có liên quan chặt chẽ giữa yếu tố bản tạng với nguyên sinh bệnh vùng tiết niệu.

Phân loại thuốc y học cổ truyền

Thuốc thanh nhiệt là nhóm thuốc có tác dụng thanh nhiệt giáng hoả, thanh nhiệt lương huyết và thanh nhiệt giải độc.

Phế nham (ung thư phế quản)

Phế nham thời kỳ sau: dùng các thuốc tây y không hiệu qủa; điều trị thuốc Trung y lại thấy không ít bệnh nhân tiến triển đột biến tốt, thời gian sống thêm tương đối dài.

Quá mẫn tính tử ban (viêm thành mạch dị ứng)

Đa phần là phát ban, có kèm theo sốt. Nếu như sau dùng thuốc mà dẫn đến quá mẫn thì thường có nốt ban đỏ thẫm to, phạm vi rộng.

Y học cổ truyền rối loạn hấp thu (đông y)

Tiêu phân mỡ 10 - 40 g/ngày, sinh thiết ruột non cho thấy dãn nở hệ bạch dịch và lacteat trong lớp lamina propia, các nhung mao có hình như dùi trống.

Rối loạn kinh nguyệt: sinh lý bệnh và cơ chế bệnh sinh theo y học cổ truyền

Rối loạn kinh nguyệt là những biểu hiện bất thường của kinh nguyệt về thời gian, tần số và lượng máu mất trong ngày hành kinh, cùng với những triệu chứng khác kèm theo.

Y học cổ truyền sốt bại liệt (đông y)

Người là nguồn bệnh duy nhất của virus bại liệt. Người bệnh không có biểu hiện lâm sàng, người bị thể nhẹ, thể không liệt là nguồn lây lan quan trọng nhất.

Y học cổ truyền tai biến mạch não

Về tạng phủ mắc bệnh, các học giả Đông y đều cho rằng sách Nội kinh nói Đại nộ tắc hình khí tuyệt mà huyết tràn lên trên, và “huyết khí cùng thượng nghịch.

Tâm giao thống (xơ vữa động mạch vành)

Ngực đầy tức, đau trước ngực tâm quí, đoản khí, sắc mặt nhợt nhạt, gầy gò, vô lực, sợ lạnh, chi lạnh, tự hãn, ngủ không yên, ăn kém, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nát, lưỡi bệu nhợt mềm.

Y học cổ truyền tăng huyết áp

Ở châu Âu và Bắc Mỹ tỷ lệ người lớn mắc bệnh từ 15-20%. Theo một công trình của Tcherdakoff thì tỷ lệ này là 10-20%. Ở Việt Nam tỷ lệ người lớn mắc bệnh tăng huyết áp là 6-12%.

Y học cổ truyền thấp tim tiến triển

Tức ngực tâm quí, suyễn khái khí súc, hông sườn chướng đau, thiện án; đàm đa sắc trắng, thậm chí có bọt sắc hồng.

Y học cổ truyền thiếu máu cơ tim

Bệnh cơ tim thiếu máu có thể xuất hiện với bệnh cảnh đau ngực (với rất nhiều mức độ khác nhau) hoặc không có biểu hiện lâm sàng.

Y học cổ truyền thiếu máu huyết tán miễn dịch

Nguyên nhân chủ yếu là tiên thiên bất túc lại phục cảm thấp nhiệt, ngoại tà hoặc do tỳ vị hư tổn thấp trọc nội sinh, uất mà hóa ứ.

Y học cổ truyền thoái hóa khớp xương

Thoái hóa khớp là bệnh của toàn bộ thành phần cấu tạo khớp như sụn khớp, xương dưới sụn, bao hoạt dịch, bao khớp, thường xảy ra ở các khớp chịu lực nhiều.

Thoát cốt thư: viêm tắc động mạch chi

Giải phẫu bệnh lý: thấy lòng động mạch hẹp, thành dày lên, soi thấy trắng cứng, lớp cơ và nội mạc dày lên, có máu cục dính hay máu cục đã xơ hóa dính chặt vào thành động mạch.

Thống phong (bệnh goutte)

Để cân bằng, hàng ngày acid uric được thải trừ ra ngoài, chủ yếu theo đường thận và một phần qua đường phân cùng với các đường khác 200 mg.

Tiết niệu lạc cảm nhiễm (viêm đường tiết nệu)

Pháp chữa: kiện tỳ bổ thận, chính tả song giải vừa phù chính vừa khu tà, phù chính sẽ có tác dụng khu tà, khư tà sẽ nâng cao khả năng phù chính, công bổ kiêm dùng.

Tiết niệu kết thạch (sỏi hệ thống tiết niệu)

Xét nghiệm nước tiểu có vi khuẩn niệu, tế bào mủ; định lượng can - xi niệu, systin niệu, axit uric niệu và tồn cặn oxalat, phosphat... Nếu có protein niệu là có viêm thận - bể thận.

Tim mạch và phong thấp nhiệt tý (thấp tim)

Viêm tim có thể gây tử vong, nhưng thường là để lại các di chứng ở van tim mà chủ yếu là van 2 lá và/hoặc van động mạch chủ.

Y học cổ truyền ung thư cổ tử cung (cổ tử cung nham)

Điều trị bệnh vừa phối hợp thuốc uống trong, vừa phối hợp dùng ngoài, nâng cao chức năng miễn dịch của cơ thể, phù chính, bồi bản, tiêu lưu kháng nham.

Vị nham: ung thư dạ dày

Bản chất bệnh thuộc về bản hư tiêu thực, phương pháp trị liệu thường phải kết hợp chặt chẽ giữa phù chính với trừ tà, nhằm kéo dài đời sống.

Y học cổ truyền viêm đại tràng mạn

Gần đây, khi xét nghiệm huyết thanh của một số bệnh nhân, người ta thấy có kháng thể kháng đại tràng nên người ta cho rằng bệnh có liên quan đến phản ứng tự thân miễn dịch.

Y học cổ truyền viêm gan mạn tính hoạt động

Viêm gan cấp tính điều trị không triệt để hoặc không được điều trị, bệnh tà lưu lại ở cơ thể, thấp nhiệt tích tụ ở can tỳ hoặc trung tiêu, khí cơ uất trệ, tạng phủ hư tổn, khí - huyết bất túc nặng hơn.

Y học cổ truyền viêm gan mạn (đông y)

Do ăn uống không điều độ, lao lực quá mức, kết hợp với uống rượu khiến cho công năng tiêu hóa của Tỳ Vị bị rối loạn sinh ra thấp.

Y học cổ truyền viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là một bệnh mạn tính được coi là một bệnh tự miễn quan trọng thứ hai trong nhóm các loại bệnh tự miễn (sau bệnh Lupus đỏ hệ thống) và là bệnh quan trọng nhất trong nhóm bệnh khớp do Thấp.

Viêm khớp phong thấp tính (viêm khớp dạng thấp tiến triển)

Bản chất bệnh là phản ứng tự kháng nguyên - kháng thể, yếu tố thấp là một IgM; yếu tố thấp chiếm đa số ổ 80% các trường hợp, còn kháng thể kháng nhân chiếm 20%.

Y học cổ truyền viêm loét dạ dày tá tràng

Loét dạ dày tá tràng là một bệnh khá phổ biến, với chừng 5 - 10% dân số có viêm loét dạ dày tá tràng trong suốt cuộc đời mình và nam giới hay gặp gấp 4 lần nữ giới .

Y học cổ truyền viêm não tủy cấp (hội chứng não cấp)

Tà phạm vệ khí (thể não)Phát sốt, sợ rét hoặc không, đau đầu, miệng khát, phiền táo, cổ cứng, co giật, đầu và rìa lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng; mạch phù sác.

Y học cổ truyền viêm màng não do não mô cầu

Khả năng kháng thuốc của màng não cầu rất mạnh, ngoài khả năng kháng lại hầu hết các thuốc kháng sinh thông thường.

Y học cổ truyền viêm phế quản (đông y)

Có thể gặp viêm phế quản cấp ở mọi lứa tuổi, nhưng chủ yếu là ở trẻ em và người cao tuổi. Thường gặp viêm phế quản cấp khi trời lạnh hoặc khi thay đổi thời tiết đột ngột.

Y học cổ truyền viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính

Viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính là bệnh danh của y học hiện đại. Y học cổ truyền thường mô tả chứng bệnh này trong các phạm trù.

Y học cổ truyền viêm thận tiểu cầu thận cấp tính

Viêm thận cấp tính không phải do các nguyên nhân viêm nhiễm trực tiếp kể trên gây nên, mà là sau viêm nhiễm do phản ứng miễn dịch phức hợp giữa kháng nguyên.

Y học cổ truyền viêm tiểu cầu thận mạn tính

Y học cổ truyền mô tả bệnh viêm cầu thận mạn tính trong chứng: thủy thũng, niệu huyết, yêu thống; thời kỳ sau thường là phạm trù hư lao.

Y học cổ truyền xơ gan (đông y)

Hình ảnh lâm sàng của xơ gan xuất phát từ những thay đổi hình thái học sẽ phản ảnh mức độ trầm trọng của tổn thương hơn là nguyên nhân của các bệnh đưa tới xơ gan.

Y học cổ truyền xơ vữa động mạch

Trong một thời gian dài, tiến triển của xơ vữa động mạch rất yên lặng, không triệu chứng và đơn thuần chỉ là những thay đổi về giải phẫu.

Y học cổ truyền huyết áp thấp (đông y)

Chứng huyết áp thấp do bất kỳ nguyên nhân nào, theo y học cổ truyền đều thuộc chứng Hư, Nhẹ thì do Tâm dương bất túc, Tỳ khí suy nhược, nặng thì thuộc thể Tâm.

Y học cổ truyền chứng bất lực (đông y)

Ngoài vai trò của tủy sống đáp ứng lại kích thích cường dương bằng sờ mó còn có vai trò quan trọng của não bộ trong việc điều hòa các kích thích thông qua phản xạ tủy.

Chữa chứng nấc cụt

Kích thích mũi họng bằng kéo lưỡi, nâng lưỡi gà bằng thìa, dùng ống thông kích thích vùng mũi họng và ăn một thìa nhỏ đường kính khô hoặc một mẫu chanh lạnh.

Chi khí quản háo suyễn (hen phế quản)

Hen phế quản dị ứng (90% ở tuổi < 30, 50% tuổi > 40). Do hít phải nấm, bụi nhà: ở Việt Nam nguyên nhân do bụi chiếm tới 60% trong số các nguyên nhân.

Can nham (ung thư gan nguyên phát)

Y học cổ truyền cho rằng, bản chất can nham là đặc điểm bản hư và tiêu thực. Điều trị chủ yếu lấy “Công bổ kiêm thi” hoặc công tà là chủ hoặc phù chính là chủ.

Biện chứng luận trị viêm tắc tĩnh mạch

Giai đoạn đầu cấp tính, bệnh nhân thấysợ lạnh, phát sốt, miệng khát muốn uống, chi sưng nề đau nhức rõ, khi đi lại thấy đau kịch liệt, đại tiện táo, tiểu tiện ngắn đỏ.

Bì phu nham (ung thư da)

Bì phu nham phát sinh và phát triển chủ yếu là do hỏa độc ngoại xâm tỳ trệ mất kiện vận, thấp trọc nội sinh dẫn đến khí trệ hỏa uất

Viêm sinh dục nữ: bệnh học y học cổ truyền, đông y

Đặc điểm lâm sàng khởi đầu bằng tình trạng viêm niêm mạc cơ quan sinh dục nữ, gây viêm tại chỗ sau đó lan theo chiều dài bộ phận sinh dục.

Y học cổ truyền bệnh tiểu đường (đông y)

Tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường rất khác nhau bởi nó phụ thuộc vào các yếu tố: địa lý, chủng tộc, lứa tuổi, mức sống, thói quen ăn uống sinh hoạt và tiêu chuẩn chẩn đoán.

Y học cổ truyền viêm đa dây thần kinh (đông y)

Phần lớn các trường hợp là tổn thương sợi trục dẫn đến bệnh cảnh rối loạn cảm giác, hoặc rối loạn cảm giác vận động, rất hiếm khi chỉ biểu hiện rối loạn vận động.

Y học cổ truyền tăng huyết áp nguyên phát (đông y)

Tăng huyết áp ác tính chiếm 2 - 5% các trường hợp tăng huyết áp. Tất cả các loại tăng huyết áp do nguyên nhân khác nhau đều có thể chuyển thành tăng huyết áp ác tính.

Y học cổ truyền bại não (đông y)

Mặc dù bất thường về vận động là dấu hiệu nổi bật nhất, nhưng rất thường gặp kèm theo những sa sút về trí thông minh, về phát triển tình cảm, ngôn ngữ và nhận thức.

Bệnh học tỳ vị

Tất cả vị khí tinh ba của ngũ tạng đều từ đó mà có, Thiên Linh Lan bí điển luận viết Tỳ Vị giã, thương lẫm chi quan, ngũ vị xuất yên..

Bệnh học thận bàng quang

Con người mới sinh ra đầu tiên là nhờ tinh khí tiên thiên mà sống và phát triển. Do đó Thận chủ tiên thiên.

Chức năng sinh lý tạng tâm (tâm bào, phủ tiểu trường, phủ tam tiêu)

Tâm thuộc Thiếu Âm, thuộc hành Hỏa, Tâm đứng đầu 12 khí quan nên gọi là Thiếu Âm quân chủ, Tâm có Tâm âm là Tâm huyết, Tâm dương là Tâm khí, Tâm hỏa.

Bệnh học phế đại trường

Chức năng của Đại trường là tống chất cặn bã ra ngoài. Linh lan bí điển luận/Tố vấn viết: “Đại trường giả tiền đạo chi quan, biến hóa xuất yên”.

Bệnh học ngoại cảm thương hàn

Thái dương kinh đi ở lưng, song song với Đốc mạch. Đốc mạch là tổng các kinh dương, là bể của dương mạch, tương thông với Thái dương.

Đại cương ngoại cảm ôn bệnh

Bệnh ngoại cảm ôn bệnh diễn tiến có quy luật và đi từ ngoài vào trong, đi từ nhẹ đến nặng, Theo Diệp Thiên Sỹ bệnh sẽ diễn biến từ Vệ phận đến Khí phận, Dinh phận và cuối cùng là Huyết phận.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: nhiệt kết bàng quang (thấp nhiệt bàng quang)

Bài thứ nhất có xuất xứ từ Chứng trị chuẩn thằng, dùng tả Can hỏa và tư âm huyết. Bài thứ 2 xuất xứ từ Y tông kim giám, dùng trị mục nhọt vùng eo lưng.

Bệnh học can đởm

Gió và sấm sét là hiện tượng tự nhiên cùng xuất hiện. Sấm sét tượng cho quẻ Chấn, Do đó, người xưa cho là Can Đởm có quan hệ với nhau.

Cách kê đơn thuốc đông y (y học cổ truyền)

Ngoài 10 -11 vị thuốc dùng để nhuận tiểu, nhuận gan, nhuận tràng, nhuận huyết, giải độc cơ thể, kích thích tiêu hóa, khai khiếu, việc sử dụng toa căn bản còn gia thêm Quế chi, Tía tô, Hành, Kinh giới, Bạch chỉ.

Bệnh học ngoại cảm

Bệnh ngoại cảm bao gồm tất cả các bệnh có nguyên nhân từ môi trường khí hậu tự nhiên bên ngoài; do khí hậu, thời tiết của môi trường bên ngoài trở nên thái quá.