Y học cổ truyền tai biến mạch não

2013-07-16 10:45 AM

Về tạng phủ mắc bệnh, các học giả Đông y đều cho rằng sách Nội kinh nói Đại nộ tắc hình khí tuyệt mà huyết tràn lên trên, và “huyết khí cùng thượng nghịch.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh mạch máu não cấp cũng gọi là tai biến mạch não là một chứng bệnh cấp tính thường gặp ở người trung niên và cao tuổi. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu của bệnh là: phát hiện đột ngột, hôn mê và bán thân bất toại.

Bệnh có thể chia làm 2 loại:

Xuất huyết não: bao gồm chảy máu não và chảy máu dưới màng cứng.

Nhũn não: bao gồm sự hình thành huyết khối và sự tắc nghẽn mạch máu.

Trừ thể xuất huyết dưới màng cứng, sách Y học cổ truyền Đông phương gọi một tên chung là chứng “trúng phong”.

Nhận thức của Đông y đối với bệnh tai biến mạch máu não:

Đông y đã có nhận thức sớm về bệnh này. Cách đây hơn 2000 năm, trong trước tác đông y như “Linh khu” đã ghi các chứng “Kích bộc” “Thiên khô” “Phong phì” có các triệu chứng ghi như: đột nhiên hôn bộc, một nửa người không cử động tự chủ. Và chứng “Đại quyết” trong sách Tố Vấn ghi về cơ chế bệnh là do khí huyết cùng thượng nghịch, và nói đến tiên lượng bệnh là “Khi hồi phục (phản phục) được là sống, còn không phản phục được là chết”. Sách “Kim quỹ yếu lược” của Trương Trọng Cảnh đời Hán mệnh danh là chứng “Trúng phong” và mô tả các triệu chứng của trúng phong như sau: bán thân bất toại, mồm méo, nói khó, nặng thì bất tỉnh nhân sự, sách đời Đường (701-704) và đời Tống (973-1093) nhận thức về nguyên nhân bệnh là do tích tuổi hư tổn. Y gia các thời đại sau bổ sung thêm nhiều luận thuyết về nguyên nhân như Lưu Hà Gian cho là do “hỏa”, Lý Đông Viên cho là “lý hư”, Chu Đan Khê cho là “đàm nhiệt”. Các học gia sau này như Trương Giới Tân (đời Minh) Diệp Thiên Sỹ (đời Thanh) đều cho rằng là do “nội thương” “tích tổn” mà thành chứ không phải do phong tà bên ngoài xâm nhập cơ thể.

Về tạng phủ mắc bệnh, các học giả Đông y đều cho rằng sách “Nội kinh” nói: “Đại nộ tắc hình khí tuyệt mà huyết tràn lên trên”, và “huyết khí cùng thượng nghịch”, phía trên là chỉ não là một trong những phủ kỳ hằng, là bể của tủy, khí của não, là thông với thận. Ngoài mặt nhận thức bệnh biến là ở não, đông y cũng nhận thức bệnh có liên quan đến nhiều tạng phủ khác như Can, Thận, Tâm, Tỳ, Vị…

Còn việc phân loại “trúng kinh lạc” và “trúng tạng phủ” cũng chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng nặng nhẹ mà phân loại: nhẹ là trúng kinh lạc, nặng là trúng tạng phủ.

Triệu chứng trúng kinh lạc thường là: chân tay tê dại, mồm méo, hoặc nói khó, bán thân bất toại nhưng không có hôn mê.

Triệu chứng trúng tạng phủ thì bệnh nặng mê man hoặc hôn mê bất tỉnh, các triệu chứng lâm sàng nặng hơn.

Kết hợp với nhận thức của y học hiện đại, trước tiên cần xác định là chứng trúng phong do xuất huyết não hay do nhũn não, nếu do xuất huyết não thì dùng phép “thanh nhiệt thông phủ bình can” tức phong hoạt huyết chỉ huyết là chính, còn nếu là nhũn não phép chữa chủ yếu là “ích khí hóa ứ” dưỡng âm hoạt huyết là chính. Đông y còn cho rằng “trúng phong” là chứng bệnh dẫn đầu trong 4 loại bệnh lớn nội khoa và gắn triệu chứng bệnh với các tạng phủ cùng tiên lượng bệnh như sau: “mồm há, tay buông thõng là Tỳ tuyệt, mắt nhắm là Can tuyệt, hôn mê bất tỉnh, mũi phập phồng là Phế tuyệt, đái dầm là Thận tuyệt, lưỡi ngắn không nói được là Tâm tuyệt, nấc cụt không dứt là bị Khí tuyệt”.

Theo số liệu thống kê của Trung Quốc, gần đây phát hiện số bệnh nhân 30 - 40 tuổi là không ít nhưng số trên 50 tuổi vẫn nhiều, chiếm trên 60%. Báo cáo của Hoàng Bỉnh Sơn năm 1986, trong số 600 b/n tai biến mạch não, số bệnh nhân trên 41 tuổi chiếm 96,2%. Điều này nói rõ là thể chất con người trên 40 tuổi thường chuyển từ thịnh sang suy và tai biến mạch não thường liên quan đến các bệnh mà người trên 40 hay mắc như xơ mỡ mạch, cao huyết áp, bệnh tim, tiểu đường, bệnh béo phì … mà các bệnh này thường là “hư chứng” hoặc trong hư kiêm thực chứng là phù hợp với nhận thức của y học cổ truyền đã ghi trong sách “Nội kinh”: “Người 40 là khí âm còn một nửa, đứng ngồi yếu”. Do đó càng thấy rõ tai biến mạch não là một bệnh nội thương mà bản chất bệnh là hư chứng. Những tác động bên ngoài như thời tiết thay đổi đột ngột hoặc những kích động tâm thần đột ngột (stress) làm cho Can phong nội động, khí huyết nghịch loạn, hoặc uống rượu nhiều, ăn nhiều chất béo mỡ gây tích trệ tại tỳ vị, tích cũng hóa nhiệt gây phong động, nói lên bệnh bản chất hư nhưng thường kiêm phong, đàm, nhiệt, ứ là vì vậy.

Xuất huyết

(Hémorragie cerébrate cerebral hemorrohage).

Não xuất huyết là do thành động mạch não bị bể và máu chảy vào tổ chức não sinh bệnh. Bệnh thường gặp ở tuổi trên 50 có huyết áp cao hoặc xơ cứng động mạch. Nam nhiều hơn nữ. Bệnh khởi phát đột ngột, triệu chứng lâm sàng chủ yếu là hôn mê, liệt tay chân, méo mồm.

Triệu chứng lâm sàng:

Xuất huyết não thường xảy ra trong lúc bệnh nhân đang tỉnh táo, thường có liên quan đến trạng thái tinh thần bị kích động đột ngột (trạng thái quá tức giận, quá lo lắng, quá vui, quá buồn đau hoặc dùng lực quá mạnh làm cho huyết áp tăng đột ngột gây nên).

Giai đoạn cấp diễn:

Bệnh nhân đau đầu đột ngột, chóng mặt, buồn nôn, nôn, một bên người yếu hoặc liệt, ý thức lú lẫn dần dần đến hôn mê, sắc mặt nóng đỏ, cổ gáy cứng, mồm méo, liệt mặt, chảy nước dãi, thở nặng sâu, cổ khò khè, bụng đầy táo bón. Phần lớn bệnh nhân sốt, huyết áp cao, mặt lưỡi nhiều ứ huyết, dưới lưỡi nổi gân xanh, chất lưỡi đỏ hoặc đỏ thẫm, rêu lưỡi vàng nhớt hoặc vàng khô, mạch huyền sắc đại.

Bệnh nhẹ thì lúc tỉnh lúc mê, thân lưỡi cứng nói không rõ tiếng, bán thân bất toại, tay chân run giật.

Bệnh nặng thì hôn mê sâu, sắc mặt tái nhợt, chân tay liệt mềm, mình mẩy lạnh ướt, hơi thở ngắn nhanh hoặc ngắt quãng, huyết áp hạ, đồng tử giãn, phản xạ ánh sáng chậm hoặc mất hẳn, tiêu tiểu không tự chủ, mạch hư đại vô căn.

Đối với những người có bệnh huyết áp cao, tiểu đường, bệnh tim, xơ cứng động mạch não, béo phì thường có những triệu chứng báo trước như đau cổ đầu, chóng mặt, tay chân tê dại, chảy máu cam, xuất huyết võng mạc mắt.

Giai đoạn hồi phục:

Sau một thời gian hôn mê từ mấy ngày đến mấy tuần thì bệnh nhân trở lại tỉnh táo, có thể nuốt và uống nước được, hơi thở ổn định, sức khỏe chung tốt dần, chân tay liệt có cử động hồi phục dần.

Giai đoạn di chứng:

Thường sau trên 6 tháng mắc bệnh, tình hình hồi phục chậm lại và để lại những di chứng mức độ khác nhau như liệt chi, chân tay cơ bắp teo gầy, run giật và đau nhức, trí lực giảm sút hoặc đần độn.

Chẩn đoán bệnh:

Tuổi trên 40, bệnh phát đột ngột.

Có những triệu chứng: hôn mê, liệt nửa người, méo mồm.

Có tiền sử huyết áp cao.

Áp lực nước não tủy tăng, xét nghiệm nước não tủy có máu đỏ (nếu lâm sàng đủ để xác định chẩn đoán, không cần chọc nước não tủy).

Nếu có điều kiện làm siêu âm sọ não, làm điện não đồ, chụp mạch não, chụp cắt lớp não (CT) để xác định chẩn đoán.

Phân tích về nguyên nhân và cơ thể bệnh theo y học cổ truyền:

Bệnh xuất huyết não phát bệnh đột ngột nhưng hình thành bệnh là một quá trình. Theo y học cổ truyền, sự hình thành bệnh có liên quan đến các yếu tố bệnh lý sau:

Phong: Tức “Can phong”, lâm sàng có triệu chứng hoa mắt váng đầu, chân tay run giật do can thận âm hư, thủy không dưỡng mộc, can dương thịnh hóa phong => sinh bệnh. Ngoài ra, tình chí u uất hóa hỏa, đặc biệt lao tâm suy nghĩ nhiều, tâm hỏa thịnh, hoặc giận dữ kích động can hỏa, hoặc ăn uống nhiều chất béo, mỡ tích trệ hóa đều dẫn đến Can phong nội động.

Hỏa: Can dương thịnh, trường vị nhiệt kết thường biểu hiện mặt đỏ, bứt rứt dễ cáu gắt, đại tiện táo kết.

Đàm: Thường do thích ăn nhiều chất béo mỡ hoặc nghiện rượu, tỳ vị tích trệ, tân dịch tích tụ sinh đàm, hoặc uất giận ưu tư nhiều quá khí trệ sinh đờm cũng là nguyên nhân thường gặp. Trên lâm sàng biểu hiện ngực tức buồn nôn, khạc ra đờm dãi, thân mình hoặc tay chân tê dại hoặc có những cơn hoa mắt váng đầu.

Ứ huyết: Nguyên nhân huyết ứ thường là do khí trệ, ngoài ra âm hư huyết ít, khí hư vận hóa suy giảm cũng gây nên huyết ứ.

Thực ra 4 yếu tố gây nguy cơ tai biến xuất huyết não trên đây đều có liên quan ảnh hưởng lẫn nhau và là nguyên nhân của nhau.

Bệnh xuất huyết não là một bệnh mang tính chất khí hư tà khí thực mà trong giai đoạn cấp biểu hiện chủ yếu là tà thực, nhưng do chính khí vốn hư nên tà khí dễ làm hao tổn nguyên khí → dễ dẫn đến tử vong trong trạng thái hư thoát (dương hư, âm hư hoặc khí âm hư, âm dương đều hư). Đến thời kỳ hồi phục và giai đoạn di chứng thì tà khí đã bị đẩy lùi (nhờ các biện pháp cấp cứu và chính khí thắng tà khí) nhưng chính khí hư tổn là chính chủ yếu là khí âm hư mà huyết ứ vẫn còn tồn đọng tại kinh mạch, cho nên trong điều trị biện chứng cần lưu ý:

Biện chứng luận trị

Biện chứng luận trị chủ yếu theo 3 giai đoạn lâm sàng:

Giai đoạn cấp tính:

Thường trong thời gian 1-2 tuần đầu của bệnh mà triệu chứng chủ yếu là hôn mê. Thời gian hôn mê càng dài, càng sâu thì tiên lượng bệnh càng kém. Do thể chất người bệnh, tình hình bệnh lý khác nhau mà biểu hiện lâm sàng khác nhau, có thể chia làm 2 thể bệnh: chứng bế và chứng thoát.

Chứng bế:

Triệu chứng chủ yếu: hôn mê, liệt nửa người, méo mồm, mắt trợn ngược, mặt đỏ, người nóng sốt, hàm răng nghiến chặt, đờm nước rãi nhiều, họng khò khè, thở thô, mũi ngáy, tay chân co cứng, tiêu tiểu không thông, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền hoạt sác, gọi là chứng “dương bế” thường gặp trong giai đoạn cấp.

Phép chữa: Khai bế tỉnh não, hoạt huyết chỉ huyết.

Huyệt châm: Chích nặn máu các huyệt: Trung xung, Bách hội, Tứ thần thông (hoặc dùng 12 huyệt tĩnh) kết hợp chích Nhân trung, Thừa tương, Phong trì, Phong phủ, Hợp cốc, Lao cung, Thái xung, Dũng tuyền. Hoặc dùng Nội quan, Nhân trung, Tam âm giao, Hợp cốc, Ủy trung. Chủ yếu dùng phép tả, ngày 1 đến 2 lần, không lưu kim cho đến khi tỉnh và tùy tình hình bệnh thay đổi chọn huyệt.

Thuốc thường dùng “An cung ngưu hoàng hoàn” “Chí bảo đơn” hoặc “Tứ tuyết đơn” (1-2 g x 2-4 lần/ngày). “An cung ngưu hoàng hoàn” và “Chí bảo đơn” mỗi lần uống 2 - 4 g, ngày 2 - 4 lần, tán nhỏ, hòa nước sôi, uống hoặc bơm bằng sonde.

Hoạt huyết chỉ huyết dùng bài “Tê giác địa hoàng thang” (bột sừng trâu 20g, Sinh địa 16-20 g, Xích thược 12-16 g, Đơn bì 12-16 g).

Đối với chứng dương bế (nhiệt bế) có thể dùng bài thuốc sau có tác dụng thanh nhiệt giải độc, bình can tức phong, an thần hoạt huyết: 

Sinh địa 10-15g, Chi tử 10g, Hoàng cầm 10g, Toàn qua lâu 15-20g, Mang tiêu 10g, Bột sừng trâu 15-25g, Thạch quyết minh 15g, Câu đằng 15g, Xích thược 15g, Đơn sâm 15g, Tam thất bột 6g, Chích thảo 3g, Trúc lịch (nước) 30ml. Ngày sắc uống thang, tùy chứng gia giảm.

Đối với chứng âm bế (thường gặp ở bệnh nhân vốn dương hư đàm thịnh hàn đàm làm bế tắc thanh khiếu) dùng phép chữa: Ôn thông khai khiếu.
Bài thuốc: “Tô hợp hương hoàn” mỗi lần uống 2-4 g, 1-2 lần uống với nước Tế tân 3g, Gừng tươi 3-5 lát.

Trường hợp triệu chứng dương hư nặng (sắc mặt tái nhợt, tự ra mồ hôi, chân tay lạnh, mạch vị hoặc phù tế mà huyền) gia Phụ tử, Hoàng kỳ, gia thêm Xuyên khung, Tô mộc, Đương quy, Bạch cương tàm, Ngưu tất, Tế tân để hoạt huyết thông lạc. Trường hợp hôn mê cấm khẩu, đờm thịnh, chính khí dục thoát cần dùng bài “Tam sinh ẩm” (Sinh nam tinh, Sinh bán hạ, Sinh phụ tử mỗi thứ 10g) gia Nhân âm 15-30g, sắc uống cấp, chống hư thoát. Lúc này châm thêm Nhân trung, Hợp cốc, Túc tam lý, Dũng tuyền để hồi dương cứu nghịch.

Chứng thoát:

Triệu chứng chủ yếu: Đột nhiên ngã quỵ hoặc do chứng bế chuyển thành, có triệu chứng hôn mê bất tỉnh, sắc mặt tái nhợt, mắt nhắm, mồm há, hơi thở ngắn gấp hoặc có lúc ngưng thở, tay buông thõng, tứ chi lạnh, toàn thân ướt lạnh, tiêu tiểu không tự chủ, chân tay liệt mềm, lưỡi rút ngắn, mạch vi dục tuyệt hoặc hư đại vô căn, huyết áp hạ. Thường chứng thoát là âm dương, khí huyết đều hư hoặc do bệnh nhân nguyên khí vốn rất hư đột quỵ là xuất hiện chứng thoát, hoặc là diễn tiến xấu đi của chứng bế, cho nên trong quá trình cấp cứu chứng bế nếu phát hiện 1, 2 triệu chứng của chứng thoát, cần chuyển hướng chữa cấp cứu kịp thời mới hy vọng cứu sống bệnh nhân.

Phép chữa chủ yếu: Hồi dương cứu thoát.

Bài thuốc cơ bản: “Sâm phụ thang” (Nhân sâm, Phụ tử mỗi thứ 15-30 g).

Trường hợp ra mồ hôi không dứt gia Long cốt, Mẫu lệ mỗi thứ 30-60 g.

Âm dương đều thoát, dùng “Sinh mạch âm hợp sâm phụ thang” gia Sơn thù, Bạch thược, Long cốt, Mẫu lệ. Đây là trường hợp cấp cứu trụy tim mạch, không thể dùng thuốc uống được mà phải tiêm truyền bằng đường tĩnh mạch. Ở Trung quốc dùng thuốc chích Sâm mạch (Nhân sâm, Mạch môn) mỗi lần 4-10 ml gia vào dung dịch Glucose 5% 20 ml chích tĩnh mạch 2-3 lần, sau đó tiếp tục dùng dịch Sâm mạch 10-20 ml cho vào dung dịch Glucose 10% 250-500 ml nhỏ giọt tĩnh mạch cho đến khi trạng thái choáng được cải thiện, huyết áp ổn định. Và sau đó tiếp tục dung dịch Sâm phụ mỗi lần 40-100 ml gia vào 10% Glucose 250-500 ml nhỏ giọt tĩnh mạch ngày 2 lần tùy tình hình bệnh mà duy trì dùng trong 7-10 ngày. Ta chưa có thuốc tiêm Sâm mạch nên phải cấp cứu chứng thoát theo phương pháp y học hiện đại.

Kết hợp châm cứu: Chủ yếu cứu các huyệt Khí hải, Quan nguyên, Thần khuyết, Dũng tuyền.

Giai đoạn hồi phục:

Sau thời gian cấp tính khoảng 1-2 tuần và kinh qua điều trị tích cực chứng bế hoặc chứng thoát, bệnh nhân qua cơn nguy kịch chuyển sang giai đoạn hồi phục. Bệnh lý chủ yếu ở giai đoạn này là chứng hư kiêm huyết ứ đàm trệ ở kinh lạc mà phần lớn là thể khí hư huyết ứ.

Triệu chứng chủ yếu: Tinh thần mệt mỏi, sắc mặt vàng xạm, liệt nửa người, chất lưỡi xám nhợt hoặc có điểm ứ huyết, mạch tế nhược hoặc tế sáp hoặc hư đại, huyết áp thường không cao hoặc không cao.

Phép chữa: Bổ khí hóa ứ, thông lạc.

Bài thuốc: “Bổ dương hoàn ngũ thang”.

Sinh Hoàng kỳ 30-60g, Xích thược 8-12g, Đương quy 12g, Xuyên khung 8g, Đào nhân 8g, Hồng hoa 8g, Địa long 6-8g. Sắc uống.

Gia giảm:

Thận hư gia Can địa hoàng, Sơn thù, Nhục thung dung, Ngưu tất, Tang ký sinh, Đỗ trọng.

Huyết áp cao gia Thanh mộc hương, Thảo quyết minh, Phòng kỷ.

Chân tay hồi phục chậm gia Đơn sâm, Xuyên giáp hoạt huyết, Quất hồng, Thanh bì hóa đàm thông lạc.

Một số bài thuốc khác như:

Dịch thông mạch sơ lạc gồm: Hoàng kỳ, Xích thược, Xuyên khung, Đơn sâm dùng truyền tĩnh mạch.

Cố bản phục nguyên thang gồm: Hoàng kỳ, Đơn sâm, Kê huyết đằng, Hoàng tinh, Hải tảo, Huyền sâm, thích hợp với thể âm hư. Ngoài ra bệnh viện Bắc kinh có chế bài thuốc uống gồm có độc vị Thủy điệt (con đỉa) dùng có kết quả.

Đối với thể âm hư dương thịnh (liệt nửa người, sắc mặt đỏ, đau đầu chóng mặt, bứt rứt, chất lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch huyền sác …) có thể dùng bài “Kỷ cúc địa hoàng hoàn” gia Thạch quyết minh, Câu đằng, Đơn sâm, Xích thược để tư âm tiềm dương, hoạt huyết thông lạc.

Giai đoạn di chứng:

Thường sau 6 tháng, sự hồi phục chức năng cơ thể người bệnh tuy vẫn tiếp tục nhưng chậm lại và thường để lại ít nhiều di chứng, có di chứng khó hồi phục trở lại bình thường.

Bệnh lý ở giai đoạn này cơ bản là giống giai đoạn hồi phục chủ yếu là hư chứng (tùy từng bệnh nhân mà biểu hiện thiên về khí hư, huyết hư, âm hư hoặc dương hư) kiêm khí huyết ứ trệ hoặc đàm thấp trở lại, nên phép chữa vẫn cần chú ý bổ ích khí huyết, tư âm tiềm dương, hành khí hóa ứ, sơ thông kinh lạc.

Đối với giai đoạn này cũng như giai đoạn hồi phục, ngoài việc dùng thuốc ra, kết hợp các phương pháp luyện tập dưỡng sinh, xoa bóp, châm cứu là rất quan trọng có vai trò quyết định sự hồi phục các chức năng vận động, lao động trí óc và chân tay. Ba mặt điều trị tối quan trọng đối với người bệnh trong giai đoạn hồi phục và di chứng là: tự tạo cho mình một tinh thần, tự xây dựng cho mình một chế độ sinh hoạt điều độ, ăn uống thanh đạm, làm việc vừa sức, không ham dục vọng kết hợp với sự luyện tập nhẹ nhàng thường xuyên đều đặn là những vấn đề thiết yếu (có thể gọi là “tam pháp bảo”) để bảo vệ sức khỏe, làm tăng sức khỏe và chống tái phát đối với bệnh nhân.

Nhũn não

Nhũn não là một trạng thái bệnh lý do sự hình thành huyết khối ở não làm tắc động mạch não → tổ chức não thiếu máu nuôi dưỡng mà sinh ra nhũn não. Sự hình thành huyết khối trong động mạch não là do động mạch não vốn bị xơ cứng, lòng mạch hẹp, máu chảy chậm lại, huyết khối hình thành và làm tắc nghẽn động mạch nuôi dưỡng não. Triệu chứng chủ yếu là liệt nửa người.

Triệu chứng lâm sàng:

Người bệnh phần lớn trên 50 tuổi, nam nhiều hơn nữ. Phát bệnh bất kỳ lúc nào, có khi đang nghỉ ngơi, đang lao động, có nhiều người ngủ dậy phát hiện liệt nửa người. Thường lúc phát bệnh, tinh thần tỉnh táo, huyết áp bình thường hoặc hơi cao, đối với một số người bệnh khởi phát từ từ, trước đó có triệu chứng đau đầu chóng mặt, trí nhớ giảm sút, chân tay tê hoặc yếu, nói hơi khó … sau 1-2 ngày mới thấy liệt nửa người. Do bệnh lý ở bộ phận mạch máu não khác nhau mà triệu chứng lâm sảng cũng khác nhau. Bệnh nặng và thường đến từ từ, có thể ý thức vẫn tỉnh táo. Chứng nhũn não cũng thường có tiền sử xơ cứng động mạch hoặc huyết áp cao.

Tiêu chuẩn chẩn đoán:

Người trên 50 tuổi có tiền sử bệnh xơ cứng động mạch hoặc huyết áp cao, liệt nửa người, nói khó hoặc không nói được xuất hiện từ từ.
b/ Nước não tủy bình thường.

Nếu có điều kiện chụp mạch máu não, làm điện não đồ và kiểm tra CT não giúp xác định chẩn đoán.

Phân tích cơ chế bệnh theo y học cổ truyền:

Người lớn tuổi thường nguyên khí suy giảm, huyết hành là nhờ có lực của khí cho nên khí hư → lực đẩy kém → huyết dễ ứ trệ → huyết ứ → tắc mạch. Mặt khác, do can thận âm hư, can dương thịnh sẽ sinh đàm sinh phong, can phong động gây co mạch, thuận lợi cho huyết khối làm tắc nghẽn khiến huyết mạch không lưu thông. Hoặc người bệnh vốn béo mập đàm thịnh dẫn đến ứ kết cũng làm mạch lạc không thông. Bệnh cơ chính là do khí hư, huyết khối hình thành làm tắc nghẽn mạch, huyết mạch không thông sinh bệnh.

Biện chứng luận trị

Trên lâm sàng thường gặp 2 thể bệnh:

Khí hư huyết ứ: là thể bệnh thường hay gặp.

Triệu chứng chủ yếu: phần lớn bệnh nhân thể chất khí hư, sắc mặt tái nhợt, hơi ngắn, dễ mệt, ra nhiều mồ hôi, tiêu phân lỏng, chất lưỡi nhợt, rìa lưỡi có dấu răng, trên mặt hoặc dưới lưỡi có điểm hoặc nốt ứ huyết, một bộ phận chân tay tê dại, liệt nửa người hoàn toàn hoặc yếu, mồm méo, nói khó hoặc không nói được, mạch vi tế hoặc hư đại, tinh thần tỉnh táo.

Phép chữa: Bổ khí, hóa ứ, thông lạc.

Bài thuốc:

“Bổ dương hoàn ngũ thang”.

Có thể dùng bài “Thông lạc hóa ứ” gồm bột Sâm Tam thất, Thủy điệt, Ngô công trộn đều theo tỷ lệ 2:2:1, mỗi lần uống 3g, ngày 3 lần để tăng cường hóa ứ thông lạc.

Gia giảm:

Trong trường hợp bệnh nhân béo mập gia thuốc hóa đàm như Bào Nam tinh, sao Bạch giới tử, Trúc lịch, nước gừng tươi.

Trường hợp có nhiệt chứng như váng đầu, hoa mắt, mặt đỏ, bứt rứt khó chịu, lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch huyền sác gia Hoàng cầm, Hạ khô thảo, Câu đằng, Thạch quyết minh, Thảo quyết minh, Bạch thược, Cúc hoa, Hắc Chi tử để thanh nhiệt bình can.

Can thận âm hư:

Triệu chứng chủ yếu: Bệnh nhân da khô nóng, thường hay hoa mắt váng đầu, tim hồi hộp, mất ngủ, bứt rứt, lưng đau gối mỏi, tiêu bón, bàn chân tay tê dại, thân lưỡi thon, rìa lưỡi đỏ, rêu dày nhớt, liệt nửa người, mồm méo, tiếng nói không rõ, mạch huyền tế sác hoặc huyền hoạt. Huyết áp cao hoặc bình thường.

Phép trị: Tư âm tức phong, hóa đờm tán ứ, thông kinh hoạt lạc.

Bài thuốc: “Mạch vị địa hoàng hoàn hợp Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm”

Mạch môn 12g, Ngũ vị 4-6g, Thiên ma 8-12g, Câu đằng 12g, Ngưu tất 12g, Ích mẫu thảo 12g, Tang ký sinh 12-16g, Đơn sâm 12g, Hồng hoa 8-12g, Thạch xương bồ 12g, Viễn chí 6g. Sắc uống.

Nói chung tai biến mạch não thường có 2 thể bệnh: xuất huyết não và nhũn não có nguyên nhân và cơ chế bệnh khác nhau, triệu chứng lâm sàng có những đặc điểm riêng. Xuất huyết não thường khởi phát đột ngột, phần lớn hôn mê, bệnh cảnh lâm sàng nặng dễ dẫn đến tử vong (hôn mê càng sâu, càng kéo dài thì tử vong càng cao). Nhũn não thường phát bệnh từ từ hơn, có những tiền triệu chứng, ít có hôn mê, tinh thần phần lớn là tỉnh táo, chỉ có liệt nửa người, rối loạn ngôn ngữ, bệnh cảnh lâm sàng nhẹ hơn, dễ hồi phục hơn, nhưng cũng có những trường hợp nhất là những trường hợp huyết khối từ các nơi khác di chuyển đến não làm tắc nghẽn mạch não thì phát bệnh cũng đột ngột và cũng có những trường hợp hôn mê nặng, cần lưu ý lúc chẩn đoán.

Kết hợp điều trị bằng phương pháp y học hiện đại:

Chủ yếu ở giai đoạn bệnh nhân hôn mê, bệnh nhân cần được:

Bảo đảm thông khí đường hô hấp: hút đờm giải, thở oxy.

Bảo đảm đủ chất dinh dưỡng: mỗi ngày ít nhất 1.500 calo. Truyền dung dịch ngọt ưu trương xen kẽ với dung dịch ngọt và dung dịch mặn đẳng trương.

Theo dõi và xử trí kịp thời các biến chứng tim mạch như thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim…

Chống loét (cần thay đổi tư thế) và chống nhiễm khuẩn (dùng kháng sinh).

Chống phù não: Lasix (Furosemide) 20 mg x 1 ống TM, dun dịch ngọt ưu trương 30% 40-100 ml, Glycérol MgSO4.

Cân bằng nước, điện giải…ổn định huyết áp. Đối với bệnh nhân không hôn mê, huyết áp ổn định, thực hiện điều trị phục hồi càng sớm càng tốt.

Giới thiệu một số bài thuốc kinh nghiệm điều trị tai biến mạch não:

Địa long đơn sâm thang:

Công thức: Địa long 20g, Đơn sâm 30g, Xích thược 15g, Hồng hoa 15g, Một dược 10g. Sắc nước uống.

Tác dụng: Hoạt huyết tức phong thông lạc. Chủ trị chứng trúng phong.

Gia giảm:

Âm hư dương thịnh gia Quy bản 20g, Đơn bì, Mạch môn, Huyền sâm đều 15g.

Đàm thấp thịnh gia Bán hạ 15g, Trần bì, Phục linh đều 20g.

Trúng phong tinh thần hợp tế:

Công thức:

Uất kim, Xương bồ đều 5g theo tỷ lệ 1:1 chưng lấy nước cất, đóng ống 10 ml. 

Câu đằng, Tang ký sinh đều 20g, Hoàng cầm, Địa long đều 10g, tán bột mịn đóng gói 15g.

Bột sừng trâu 1,5g, Ngưu hoàng nhân tạo 1,3g tán bột thật mịn.

Cách chế và dùng: Trước hết sắc (2) 15 phút sau cho (1) và (3) vào trộn đều uống, nếu nuốt khó cho vào đường mũi, mỗi ngày 3 lần: sáng, trưa và tối.

Tác dụng: Bình can tức phong, thanh tâm khai khiếu. Chủ trị tai biến mạch não cấp.

Gia giảm:

Trường hợp sốt cao: uống Cam lộ thối nhiệt tán (Kim ngân hoa, sinh Thạch cao, Hạ khô thảo đều 20g, Chi tử 5g, tán bột mịn, đóng gói 15g/gói) bỏ vào sắc cùng với (2).

Đàm nhiều gia bài thuốc trừ đàm (Đờm tinh 6g, Viễn chí 10g, Quất hồng 10g, tán bột thô) sắc cùng (2).

Tư thọ giải ngũ thang:

Công thức: Phòng phong 9g, Phụ phiến 6g, Thiên ma 6g, Toan táo nhân 9g, Linh dương giác 4,5g, Quế tâm 3g, Cam thảo 3g, Xuyên khung 9g, Huyền sâm 9g, Xương bồ 6g. Cho 400 ml nước sắc còn 200 ml.

Gia thêm Trúc lịch 1ml, nước gừng 1 ml trộn đều chia 2 lần, mỗi cách 1 giờ uống 1 lần.

Linh liên thang:

Công thức: Hoàng cầm, Bán hạ, Chế nam tinh, Trúc nhự, Địa long đều 10g. Hoàng liên, Xuyên bối mẫu, Quất bì đều 9g. Phục linh, Chỉ thực, Ngưu tất đều 12g. Sắc uống.

Tác dụng: Táo thấp hóa đờm, thanh nhiệt trừ phiền, điều hòa can đởm. Chủ trị chứng trúng phong.

Gia giảm:

Chân tay đau tê dại, chất lưỡi đỏ thẫm hoặc có ban ứ huyết, bỏ Xuyên bối, Ngưu tất, Quất bì, gia Đan sâm, Đào nhân, Hồng hoa.

Âm hư rõ gia Bạch thược, Sinh địa, Thạch hộc, Ngọc trúc, Huyền sâm.

Táo bón gia Qua lâu, Ma nhân.

Ngủ kém gia Táo nhân, Viễn chí, Dạ giao đằng.

Thông mạch sơ lạc phương:

Công thức:

Hoàng kỳ, Đơn sâm, Xuyên khung, Xích thược chế thành dịch tiêm, truyền tĩnh mạch mỗi ngày 250 ml, 1 liệu trình 10 ngày, nghỉ 4 ngày, tiếp tục liệu trình 2.

Hoàng kỳ 30g, Xuyên khung 10g, Địa long 15g, Ngưu tất 15g, Đơn sâm 30g, Quế chi 6g, Sơn tra 30g sắc nước uống.

Tác dụng: Ích khí hoạt huyết thông lạc. Chủ trị nhũn não do huyết khối.

Gia giảm:

Có rối loạn ngôn ngữ và ý thức thuộc khí uất đàm thấp: bài (1) gia Uất kim, Xương bồ, Đơn sâm chế thuốc chích, mỗi lần chích 4ml, ngày 2 lần.

Nói và nuốt khó: bỏ Quế chi gia Đởm nam tinh 10g, Uất kim 10g.

Đau đầu nhiều: bỏ Quế chi gia Cương tàm, Cúc hoa 15g.

Chóng mặt mà cơ thể mập, bỏ Quế chi giảm lượng 10g Hoàng kỳ, gia Bạch truật, Trạch tả đều 10g, Phục linh 15g.

Can dương thịnh: bỏ Quế chi, Xuyên khung, Hoàng kỳ gia Trân châu mẫu 30g, Sung úy tử 10g.

Ăn kém, rêu lưỡi trắng dày, bỏ Quế chi gia Bạch truật, Phục linh đều 10g, Ý dĩ 20g hoặc Hoắc hương 10g, Bội lan 10g.

Nôn: gia Trúc nhự 10g, Khương bán hạ 10g.

Co giật: bỏ Quế chi gia Bạch cương tàm 10g, Câu đằng 10g.

Táo bón, mồm hôi gia Đại hoàng 12g (cho sau).

Đào hồng thông mạch phương:

Công thức: Đào nhân, Hồng hoa, Xuyên khung, Xuyên sơn giáp, Quế chi, Địa long, Bạch thược đều 10g, Sinh hoàng kỳ, Đơn sâm đều 15g, chế thành thuốc bột, hòa uống, lượng trên thành 1 gói, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần ¼ gói.

Trường hợp nặng và bệnh lâu ngày, mỗi ngày 1 gói, chia 2-3 lần, uống.

Tác dụng: Hoạt huyết thông mạch.

Chủ trị: nhũn não giai đoạn hồi phục và di chứng.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: hội chứng nhiệt nhập tâm bào

Tâm bào lại là ngoại vệ của Tâm, bảo vệ cho Thiếu âm quân hỏa, Do đó, dù ngoại tà là loại gì, khi vào đến quyết âm gây bệnh thì hội chứng của nó sẽ biểu hiện mang thuộc tính của phong, của Hỏa.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: vị nhiệt úng thịnh

Nhiệt tà phạm Vị làm tiêu hao tân dịch, khô khát, lở miệng, tiểu sẻn. Đồng thời, nhiệt tà làm bức huyết, chảy máu răng miệng, Vị lạc với Tâm, Thần minh nên gây bức rức, cuồng sảng.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: tỳ vị thấp nhiệt

Ngoài tính chất của thử (nhiệt) tà là làm hao khí, tổn hao tân dịch và thấp tà làm trở trệ hoạt động của khí đưa đến ngăn trở hoạt động công năng của Ty Vị và làm hao tổn tân dịch của Vị

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: hàn thấp khốn tỳ

Ngoài tính chất hàn tà làm dương khí tụ lại, thấp tà làm cản trở hoạt động của khí đưa đến ngăn trở công năng hoạt động của Tỳ Vị.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: đại trường hàn kết

Tính chất của Hàn tà là làm cho khí tụ lại khiến công năng truyền tống phân của Đại trường bị ngưng trệ, Ngoài ra, trên lâm sàng còn có những biểu hiện của Hàn khí như mặt trắng, sợ lạnh, tay chân mát.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: thấp nhiệt đại trường

Tính chất nhiệt tà làm tổn khí và hao tân dịch. Tính chất của Nhiệt tà làm trở trệ khí, Khi 2 yếu tố này liên kết nhau thì 1 yếu tố gây bạo chú, ói ỉa, 1 yếu tố gây trở trệ như mót rặn.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: nhiệt kết đại trường

Nhiệt tà có tính chất tổn khí và hao tân dịch, do đó sẽ ảnh hưởng đến chức năng truyền tống của phủ Đại trường cũng như hao tổn âm dịch của phủ Đại trường.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: táo khí thương phế

Táo tà là dương tà có tính chất làm thương tổn âm dịch của Phế, do đó khi Phế âm bị thương tổn thì Phế khí cũng bị thương tổn theo.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: phong nhiệt phạm phế

Nhiệt tà là dương tà có tính chất làm hao khí và tổn âm dịch. Đồng thời, Phong và Nhiệt tà lại có tính chất tương trợ cho nhau nên thể bệnh rất mạnh, lúc đó nhiệt làm bức huyết.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: phong hàn thúc phế

Phong là dương tà có đặc điểm biến hóa nhanh, là nhân tố hàng đầu của mọi bệnh, và thường kết hợp với các tà khác để gây bệnh.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: hàn trệ can mạch

Kinh Can, trong lộ trình ở vùng bẹn, vòng quanh bộ phận sinh dục, qua bụng dưới tản ra 2 bên chânm hàn tà xâm phạm Can mạch làm kinh khí ngưng trệ nên có biểu hiện đau bụng, sán khí.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: can đởm thấp nhiệt

Đau vùng hông sườn hoặc các triệu chứng ở bộ phận sinh dục, vùng quản lý của Can mang tính chất Thấp và Nhiệt.

Băng lậu: huyết ở âm đạo ra nhiều hoặc lai rai không dứt

Băng lậu có cùng gốc nhưng thể hiện chứng trạng có khác nhau, nếu băng lậu lâu ngày không cầm, thế bệnh nặng dần sinh ra băng.

Bế kinh: điều trị bằng y học cổ truyền

Phần nhiều là âm huyết bất túc, huyết hư do mất máu nhiều, đổ mồ hôi trộm, phòng lao, sinh đẻ nhiều hoặc Tỳ Vị hư yếu nên không sinh huyết hoặc trùng tích.

Thống kinh: điều trị bằng y học cổ truyền

Đau bụng kinh là sự ngăn trở vận hành khí và huyết. Vì kinh nguyệt là do huyết hóa ra, huyết lại tùy vào khí để vận hành, do đó khi khí huyết hòa thuận, sung túc thì không gây đau bụng khi hành kinh.

Kinh nguyệt ít: điều trị bằng y học cổ truyền

Tạng Thận khai khiếu ở tiền âm, hậu âm lại là chủ tể của cơ quan sinh dục, cho nên khi các chức năng của các tạng trên rối loạn đều có thể tác động đến chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ.

Kinh nguyệt nhiều: điều trị theo y học cổ truyền

Thận cũng ảnh hưởng rất lớn về nguyệt kinh. Thật vậy, Tâm chủ huyết, Tỳ thống huyết, Can tàng huyết. Mạch Can liên lạc với âm khí, quản lý phần bụng dưới.

Kinh nguyệt không định kỳ: điều trị theo y học cổ truyền

Các nguyên nhân trên làm cho khí huyết của mạch Xung, mạch Nhâm và Bào cung mất điều hòa, mà gây nên những rối loạn chu kỳ kinh nguyệt.

Kinh nguyệt đến sau kỳ: điều trị theo y học cổ truyền

Khí huyết của mạch Xung, mạch Nhâm bắt đầu đầy đủ thịnh vượng thì hành kinh đúng chu kỳ mỗi tháng. Đến trên dưới 49 tuổi thì khí huyết của mạch Xung, mạch Nhâm suy yếu dần.

Kinh nguyệt trước kỳ: nguyên tắc điều trị theo y học cổ truyền

Đối với người phụ nữ thì bào cung là khí quan riêng biệt, chuyên chủ việc kinh nguyệt và hệ bào, nơi phát nguồn của mạch Xung, mạch Nhâm.

Bệnh chứng tâm tiểu trường

Tâm huyết uất trệ là bệnh cảnh đặc biệt do 1 biểu hiện thực chứng trên nền tảng hư chứng. Đó là cơ thể có sẵn khí hư hoặc dương hư sinh ra đờm trọc, đờm trọc ngưng tụ làm ảnh hưởng đến sự vận hành chu lưu toàn thân của Huyết.

Viêm sinh dục nữ: điều trị bằng y học cổ truyền

Trong phạm vi bài này bao gồm tất cả các tên được phân loại theo màu sắc, tính chất, dịch tiết như Bạch đới, Hoàng đới, Bạch dâm, Bạch băng, Thanh đới, Bạch trọc, Xích đới, Hắc đới, Xích bạch đới, Ngũ sắc đới.

Bệnh học và điều trị ngoại cảm ôn bệnh

Khí cũng là dạng vật chất cơ bản để tạo thành và duy trì sự sống của con người. Nó tồn tại trong các tổ chức tạng phủ và thông qua các hoạt động cơ năng của tạng phủ để phản ảnh ra ngoài.

Đởm lạc kết thạch, cảm nhiễm (sỏi và viêm đường dẫn mật)

Sỏi đường mật cần được chẩn đoán phân biệt với u đầu tuỵ, viêm tuỵ mạn thể tắc mật, ung thư bóng Vater, viêm vi quản mật tiên phát và những trường hợp hoàng đản.

Y học cổ truyền động kinh (đông y)

Đặc điểm chủ yếu của bệnh là lên cơn đột ngột, ngắn và tái phát nhiều lần, có những rối loạn về ý thức, cảm giác và chức năng thần kinh thực vật, giữa 2 cơn hoạt động của cơ thể là bình thường.

Đường niệu bệnh, tiêu khát (đái tháo đường)

Phiền khát uống nhiều, uống không giảm khát, miệng khô lưỡi ráo, cấp táo hay giận, bức nhiệt tâm phiền, niệu phiền lượng nhiều hoặc đại tiện táo kết, mạch huyền sác hoặc hoạt sác.

Y học cổ truyền đau dây thần kinh tọa

Đau dây thần kinh tọa được định nghĩa là một hội chứng thần kinh có đặc điểm chủ yếu là đau dọc theo lộ trình của dây thần kinh tọa và các nhánh của nó, nguyên nhân thường do bệnh lý đĩa đệm ở phần thấp của cột sống.

Y học cổ truyền đại tràng kích thích (đông y)

Đau bụng với cảm giác quặn thắt và giảm sau khi đi xong, bệnh nhân thường táo bón hoặc xen kẽ với tiêu chảy và tiêu chảy nếu có thường xảy ra sau khi ăn phải một số thức ăn.

Y học cổ truyền suy nhược mãn tính

Do mắc bệnh lâu ngày, làm cơ thể suy yếu, Thận âm, Thận dương suy, Thận âm suy hư hỏa bốc lên, Thận dương suy chân dương nhiễu loạn ở trên.

Y học cổ truyền hen phế quản (đông y)

Có thể có triệu chứng báo hiệu hắt hơi, sổ mũi, ho khan, tức ngực, Chủ yếu khó thở thì thở ra, cơn nặng phải ngồi chống tay, há miệng thở, cơn có thể kịch phát hoặc liên tục.

Hư lao: suy nhược cơ thể

Tâm quí kiên vong, huyền vựng, sắc mặt gầy bệch, khí đoản gầy gò, ngủ hay mơ, dễ tỉnh giấc,ăn không ngon miệng, hoặc bụng đau tiện lỏng, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch tế nhược.

Y học cổ truyền liệt mặt nguyên phát (đông y)

Sau khi rời thân não, dây thần kinh mặt, có kèm theo dây phụ Wrisberg, động mạch và tùng tĩnh mạch, chạy xuyên qua xương đá trong một ống xương: vòi Fallope.

Ngải tư bệnh (HIV, AIDS)

Chính khí hư dễ dẫn đến ngoại tà, tà độc phục cảm và dẫn đến chính hư tà thực thì bệnh tình càng trở nên nghiêm trọng và dẫn đến tử vong.

Ngân tiết bệnh (bệnh vẩy nến)

Về điều trị, hiện nay còn rất nhiều khó khăn, chưa có phương pháp nào chữa khỏi bệnh vẩy nến nhưng có nhiều phương pháp làm sạch tổn thương vẩy nến bằng các thuốc tân dược.

Y học cổ truyền mỡ máu tăng cao

Do mỡ dạng hoà tan trong huyết tương hoặc kết hợp mỡ hòa tan với albumin để vận chuyển đi toàn thân gọi là chứng mỡ.

Y học cổ truyền nhiễm trùng tiết niệu (đông y)

E. Coli chiếm 80% trong các nhiễm trùng tiểu không do thủ thuật niệu khoa, không do bất thường giải phẫu học hệ niệu và không do sỏi.

Nhũ nham: ung thư vú

Tâm phiền táo trằn trọc, mặt mắt đỏ, đau vú dữ dội, chất lưỡi đỏ có nhiều ban đỏ ứ huyết, lưỡi thường không rêu, mạch huyền sác.

Y học cổ truyền nhược năng tuyến giáp (viêm tuyến giáp Hashimoto)

Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của nó là tinh thần uất ức kéo dài, tình chí thất thường, can mất điều hoà dẫn đến can khí uất kết, khí trệ huyết ứ.

Niệu lạc kết thạch (sỏi niệu quản)

Bản chất bệnh tương đối phức tạp, thường có liên quan chặt chẽ giữa yếu tố bản tạng với nguyên sinh bệnh vùng tiết niệu.

Phân loại thuốc y học cổ truyền

Thuốc thanh nhiệt là nhóm thuốc có tác dụng thanh nhiệt giáng hoả, thanh nhiệt lương huyết và thanh nhiệt giải độc.

Phế nham (ung thư phế quản)

Phế nham thời kỳ sau: dùng các thuốc tây y không hiệu qủa; điều trị thuốc Trung y lại thấy không ít bệnh nhân tiến triển đột biến tốt, thời gian sống thêm tương đối dài.

Quá mẫn tính tử ban (viêm thành mạch dị ứng)

Đa phần là phát ban, có kèm theo sốt. Nếu như sau dùng thuốc mà dẫn đến quá mẫn thì thường có nốt ban đỏ thẫm to, phạm vi rộng.

Y học cổ truyền rối loạn hấp thu (đông y)

Tiêu phân mỡ 10 - 40 g/ngày, sinh thiết ruột non cho thấy dãn nở hệ bạch dịch và lacteat trong lớp lamina propia, các nhung mao có hình như dùi trống.

Rối loạn kinh nguyệt: sinh lý bệnh và cơ chế bệnh sinh theo y học cổ truyền

Rối loạn kinh nguyệt là những biểu hiện bất thường của kinh nguyệt về thời gian, tần số và lượng máu mất trong ngày hành kinh, cùng với những triệu chứng khác kèm theo.

Y học cổ truyền sốt bại liệt (đông y)

Người là nguồn bệnh duy nhất của virus bại liệt. Người bệnh không có biểu hiện lâm sàng, người bị thể nhẹ, thể không liệt là nguồn lây lan quan trọng nhất.

Tâm giao thống (xơ vữa động mạch vành)

Ngực đầy tức, đau trước ngực tâm quí, đoản khí, sắc mặt nhợt nhạt, gầy gò, vô lực, sợ lạnh, chi lạnh, tự hãn, ngủ không yên, ăn kém, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nát, lưỡi bệu nhợt mềm.

Y học cổ truyền tăng huyết áp

Ở châu Âu và Bắc Mỹ tỷ lệ người lớn mắc bệnh từ 15-20%. Theo một công trình của Tcherdakoff thì tỷ lệ này là 10-20%. Ở Việt Nam tỷ lệ người lớn mắc bệnh tăng huyết áp là 6-12%.

Y học cổ truyền thấp tim tiến triển

Tức ngực tâm quí, suyễn khái khí súc, hông sườn chướng đau, thiện án; đàm đa sắc trắng, thậm chí có bọt sắc hồng.

Y học cổ truyền thiếu máu cơ tim

Bệnh cơ tim thiếu máu có thể xuất hiện với bệnh cảnh đau ngực (với rất nhiều mức độ khác nhau) hoặc không có biểu hiện lâm sàng.

Y học cổ truyền thiếu máu huyết tán miễn dịch

Nguyên nhân chủ yếu là tiên thiên bất túc lại phục cảm thấp nhiệt, ngoại tà hoặc do tỳ vị hư tổn thấp trọc nội sinh, uất mà hóa ứ.

Y học cổ truyền thoái hóa khớp xương

Thoái hóa khớp là bệnh của toàn bộ thành phần cấu tạo khớp như sụn khớp, xương dưới sụn, bao hoạt dịch, bao khớp, thường xảy ra ở các khớp chịu lực nhiều.

Thoát cốt thư: viêm tắc động mạch chi

Giải phẫu bệnh lý: thấy lòng động mạch hẹp, thành dày lên, soi thấy trắng cứng, lớp cơ và nội mạc dày lên, có máu cục dính hay máu cục đã xơ hóa dính chặt vào thành động mạch.

Thống phong (bệnh goutte)

Để cân bằng, hàng ngày acid uric được thải trừ ra ngoài, chủ yếu theo đường thận và một phần qua đường phân cùng với các đường khác 200 mg.

Tiết niệu lạc cảm nhiễm (viêm đường tiết nệu)

Pháp chữa: kiện tỳ bổ thận, chính tả song giải vừa phù chính vừa khu tà, phù chính sẽ có tác dụng khu tà, khư tà sẽ nâng cao khả năng phù chính, công bổ kiêm dùng.

Tiết niệu kết thạch (sỏi hệ thống tiết niệu)

Xét nghiệm nước tiểu có vi khuẩn niệu, tế bào mủ; định lượng can - xi niệu, systin niệu, axit uric niệu và tồn cặn oxalat, phosphat... Nếu có protein niệu là có viêm thận - bể thận.

Tim mạch và phong thấp nhiệt tý (thấp tim)

Viêm tim có thể gây tử vong, nhưng thường là để lại các di chứng ở van tim mà chủ yếu là van 2 lá và/hoặc van động mạch chủ.

Y học cổ truyền ung thư cổ tử cung (cổ tử cung nham)

Điều trị bệnh vừa phối hợp thuốc uống trong, vừa phối hợp dùng ngoài, nâng cao chức năng miễn dịch của cơ thể, phù chính, bồi bản, tiêu lưu kháng nham.

Vị nham: ung thư dạ dày

Bản chất bệnh thuộc về bản hư tiêu thực, phương pháp trị liệu thường phải kết hợp chặt chẽ giữa phù chính với trừ tà, nhằm kéo dài đời sống.

Y học cổ truyền viêm đại tràng mạn

Gần đây, khi xét nghiệm huyết thanh của một số bệnh nhân, người ta thấy có kháng thể kháng đại tràng nên người ta cho rằng bệnh có liên quan đến phản ứng tự thân miễn dịch.

Y học cổ truyền viêm gan mạn tính hoạt động

Viêm gan cấp tính điều trị không triệt để hoặc không được điều trị, bệnh tà lưu lại ở cơ thể, thấp nhiệt tích tụ ở can tỳ hoặc trung tiêu, khí cơ uất trệ, tạng phủ hư tổn, khí - huyết bất túc nặng hơn.

Y học cổ truyền viêm gan mạn (đông y)

Do ăn uống không điều độ, lao lực quá mức, kết hợp với uống rượu khiến cho công năng tiêu hóa của Tỳ Vị bị rối loạn sinh ra thấp.

Y học cổ truyền viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là một bệnh mạn tính được coi là một bệnh tự miễn quan trọng thứ hai trong nhóm các loại bệnh tự miễn (sau bệnh Lupus đỏ hệ thống) và là bệnh quan trọng nhất trong nhóm bệnh khớp do Thấp.

Viêm khớp phong thấp tính (viêm khớp dạng thấp tiến triển)

Bản chất bệnh là phản ứng tự kháng nguyên - kháng thể, yếu tố thấp là một IgM; yếu tố thấp chiếm đa số ổ 80% các trường hợp, còn kháng thể kháng nhân chiếm 20%.

Y học cổ truyền viêm loét dạ dày tá tràng

Loét dạ dày tá tràng là một bệnh khá phổ biến, với chừng 5 - 10% dân số có viêm loét dạ dày tá tràng trong suốt cuộc đời mình và nam giới hay gặp gấp 4 lần nữ giới .

Y học cổ truyền viêm não tủy cấp (hội chứng não cấp)

Tà phạm vệ khí (thể não)Phát sốt, sợ rét hoặc không, đau đầu, miệng khát, phiền táo, cổ cứng, co giật, đầu và rìa lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng; mạch phù sác.

Y học cổ truyền viêm màng não do não mô cầu

Khả năng kháng thuốc của màng não cầu rất mạnh, ngoài khả năng kháng lại hầu hết các thuốc kháng sinh thông thường.

Y học cổ truyền viêm phế quản (đông y)

Có thể gặp viêm phế quản cấp ở mọi lứa tuổi, nhưng chủ yếu là ở trẻ em và người cao tuổi. Thường gặp viêm phế quản cấp khi trời lạnh hoặc khi thay đổi thời tiết đột ngột.

Y học cổ truyền viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính

Viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính là bệnh danh của y học hiện đại. Y học cổ truyền thường mô tả chứng bệnh này trong các phạm trù.

Y học cổ truyền viêm thận tiểu cầu thận cấp tính

Viêm thận cấp tính không phải do các nguyên nhân viêm nhiễm trực tiếp kể trên gây nên, mà là sau viêm nhiễm do phản ứng miễn dịch phức hợp giữa kháng nguyên.

Y học cổ truyền viêm tiểu cầu thận mạn tính

Y học cổ truyền mô tả bệnh viêm cầu thận mạn tính trong chứng: thủy thũng, niệu huyết, yêu thống; thời kỳ sau thường là phạm trù hư lao.

Y học cổ truyền xơ gan (đông y)

Hình ảnh lâm sàng của xơ gan xuất phát từ những thay đổi hình thái học sẽ phản ảnh mức độ trầm trọng của tổn thương hơn là nguyên nhân của các bệnh đưa tới xơ gan.

Y học cổ truyền xơ vữa động mạch

Trong một thời gian dài, tiến triển của xơ vữa động mạch rất yên lặng, không triệu chứng và đơn thuần chỉ là những thay đổi về giải phẫu.

Y học cổ truyền với miễn dịch và khả năng kháng khuẩn

Phản ứng miễn dịch bao gồm ; choáng phản vệ loại bỏ protein lạ, mày đay nổi mẩn... cố định các dị nguyên ở vùng viêm không cho lan rộng ra toàn thân.

Y học cổ truyền huyết áp thấp (đông y)

Chứng huyết áp thấp do bất kỳ nguyên nhân nào, theo y học cổ truyền đều thuộc chứng Hư, Nhẹ thì do Tâm dương bất túc, Tỳ khí suy nhược, nặng thì thuộc thể Tâm.

Y học cổ truyền chứng bất lực (đông y)

Ngoài vai trò của tủy sống đáp ứng lại kích thích cường dương bằng sờ mó còn có vai trò quan trọng của não bộ trong việc điều hòa các kích thích thông qua phản xạ tủy.

Chữa chứng nấc cụt

Kích thích mũi họng bằng kéo lưỡi, nâng lưỡi gà bằng thìa, dùng ống thông kích thích vùng mũi họng và ăn một thìa nhỏ đường kính khô hoặc một mẫu chanh lạnh.

Chi khí quản háo suyễn (hen phế quản)

Hen phế quản dị ứng (90% ở tuổi < 30, 50% tuổi > 40). Do hít phải nấm, bụi nhà: ở Việt Nam nguyên nhân do bụi chiếm tới 60% trong số các nguyên nhân.

Can nham (ung thư gan nguyên phát)

Y học cổ truyền cho rằng, bản chất can nham là đặc điểm bản hư và tiêu thực. Điều trị chủ yếu lấy “Công bổ kiêm thi” hoặc công tà là chủ hoặc phù chính là chủ.

Biện chứng luận trị viêm tắc tĩnh mạch

Giai đoạn đầu cấp tính, bệnh nhân thấysợ lạnh, phát sốt, miệng khát muốn uống, chi sưng nề đau nhức rõ, khi đi lại thấy đau kịch liệt, đại tiện táo, tiểu tiện ngắn đỏ.

Bì phu nham (ung thư da)

Bì phu nham phát sinh và phát triển chủ yếu là do hỏa độc ngoại xâm tỳ trệ mất kiện vận, thấp trọc nội sinh dẫn đến khí trệ hỏa uất

Viêm sinh dục nữ: bệnh học y học cổ truyền, đông y

Đặc điểm lâm sàng khởi đầu bằng tình trạng viêm niêm mạc cơ quan sinh dục nữ, gây viêm tại chỗ sau đó lan theo chiều dài bộ phận sinh dục.

Y học cổ truyền bệnh tiểu đường (đông y)

Tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường rất khác nhau bởi nó phụ thuộc vào các yếu tố: địa lý, chủng tộc, lứa tuổi, mức sống, thói quen ăn uống sinh hoạt và tiêu chuẩn chẩn đoán.

Y học cổ truyền viêm đa dây thần kinh (đông y)

Phần lớn các trường hợp là tổn thương sợi trục dẫn đến bệnh cảnh rối loạn cảm giác, hoặc rối loạn cảm giác vận động, rất hiếm khi chỉ biểu hiện rối loạn vận động.

Y học cổ truyền tăng huyết áp nguyên phát (đông y)

Tăng huyết áp ác tính chiếm 2 - 5% các trường hợp tăng huyết áp. Tất cả các loại tăng huyết áp do nguyên nhân khác nhau đều có thể chuyển thành tăng huyết áp ác tính.

Y học cổ truyền bại não (đông y)

Mặc dù bất thường về vận động là dấu hiệu nổi bật nhất, nhưng rất thường gặp kèm theo những sa sút về trí thông minh, về phát triển tình cảm, ngôn ngữ và nhận thức.

Bệnh học tỳ vị

Tất cả vị khí tinh ba của ngũ tạng đều từ đó mà có, Thiên Linh Lan bí điển luận viết Tỳ Vị giã, thương lẫm chi quan, ngũ vị xuất yên..

Bệnh học thận bàng quang

Con người mới sinh ra đầu tiên là nhờ tinh khí tiên thiên mà sống và phát triển. Do đó Thận chủ tiên thiên.

Chức năng sinh lý tạng tâm (tâm bào, phủ tiểu trường, phủ tam tiêu)

Tâm thuộc Thiếu Âm, thuộc hành Hỏa, Tâm đứng đầu 12 khí quan nên gọi là Thiếu Âm quân chủ, Tâm có Tâm âm là Tâm huyết, Tâm dương là Tâm khí, Tâm hỏa.

Bệnh học phế đại trường

Chức năng của Đại trường là tống chất cặn bã ra ngoài. Linh lan bí điển luận/Tố vấn viết: “Đại trường giả tiền đạo chi quan, biến hóa xuất yên”.

Bệnh học ngoại cảm thương hàn

Thái dương kinh đi ở lưng, song song với Đốc mạch. Đốc mạch là tổng các kinh dương, là bể của dương mạch, tương thông với Thái dương.

Đại cương ngoại cảm ôn bệnh

Bệnh ngoại cảm ôn bệnh diễn tiến có quy luật và đi từ ngoài vào trong, đi từ nhẹ đến nặng, Theo Diệp Thiên Sỹ bệnh sẽ diễn biến từ Vệ phận đến Khí phận, Dinh phận và cuối cùng là Huyết phận.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: nhiệt kết bàng quang (thấp nhiệt bàng quang)

Bài thứ nhất có xuất xứ từ Chứng trị chuẩn thằng, dùng tả Can hỏa và tư âm huyết. Bài thứ 2 xuất xứ từ Y tông kim giám, dùng trị mục nhọt vùng eo lưng.

Bệnh học can đởm

Gió và sấm sét là hiện tượng tự nhiên cùng xuất hiện. Sấm sét tượng cho quẻ Chấn, Do đó, người xưa cho là Can Đởm có quan hệ với nhau.

Cách kê đơn thuốc đông y (y học cổ truyền)

Ngoài 10 -11 vị thuốc dùng để nhuận tiểu, nhuận gan, nhuận tràng, nhuận huyết, giải độc cơ thể, kích thích tiêu hóa, khai khiếu, việc sử dụng toa căn bản còn gia thêm Quế chi, Tía tô, Hành, Kinh giới, Bạch chỉ.

Bệnh học ngoại cảm

Bệnh ngoại cảm bao gồm tất cả các bệnh có nguyên nhân từ môi trường khí hậu tự nhiên bên ngoài; do khí hậu, thời tiết của môi trường bên ngoài trở nên thái quá.